vietnamese Tiếng Việt english English
Hôm nay:

Truyện trinh thám : Án Mạng Dưới Chân Tháp

22:10 |

[FD's BlOg] - Tuyển tập truyện trinh thám .
Án Mạng Dưới Chân Tháp

Download : Here

Viên thanh tra cảnh sát Maurice Bakoula vừa tóm tắt xong sự kiện. Phản ứng đầu tiên của tôi, một nhà báo, là tìm một tít lớn cho trang một. « Một phụ nữ Việt Nam bị ám sát giữa Paris »: quá thường. « Sự cố rùng rợn nhất từ xưa đến nay trong cộng đồng người Việt » : hơi dài, làm mất chỗ quảng cáo. « Máu Việt Nam đã đổ giữa kinh đô ánh sáng » : nghe như tựa tiểu thuyết rẻ tiền bán ở ga Lyon. « Lực lượng nào có lợi trong cái chết của bà Trần Thị Trầm Thảo ? » : tít mở với đầy ẩn ý chính trị, nhưng sợ chỉ hấp dẫn vài chục lãnh đạo đảng phái, không thu hút đông đảo bà con đi chợ Tàu ở quận 13...

Cách đây mấy ngày, lúc 4 giờ sáng, dưới gầm cầu Iéna nằm giữa Tháp Eiffel và quảng trường Trocadéro, người ta khám phá một bọc rác lớn chứa xác chết một người đàn bà Việt Nam. Nạn nhân bị giết trước đó khoảng 2 tiếng đồng hồ. 7 viên đạn đồng tập trung vào đầu, thân thể bị lột trần và cắt ra từng mảnh. Người chết còn đầy đủ tiền bạc nữ trang, và giấy tờ để nhận diện. Cảnh sát đã xuất hiện nhanh chóng, tại chỗ không ai được quyền làm nhân chứng, báo chí truyền hình tuyệt nhiên không nói gì về vụ này. Nạn nhân không phải là một bà hoàng nước giàu. Trung tâm Paris không phải là bãi chiến trường cho các băng cướp thủ tiêu nhau. Không thể để các đoàn du khách Nhật Bản, Đại Hàn tụ tập nơi một xác chết cùng màu da, quên đứng chụp hình trước cái tháp sắt, biểu tượng của thành phố đẹp nhất thế giới.

Cảnh sát quận 7 chỉ cử 1 nhân viên lo hồ sơ này, là Maurice Bakoulạ Hồ sơ không quan trọng. Vả lại, từ hồi các sở cảnh áp dụng Luật Lao động mới, làm việc 35 giờ một tuần, mỗi công chức là một của quý, không thể phí phạm. Người đàn bà bị giết gốc gác ở một nước chậm tiến, Maurice Bakoula gốc Phi châu, thế là được rồi. Viên thanh tra trẻ tuổi thuộc thế hệ sĩ quan an ninh của thế kỷ mới, hiểu biết không hạn chế mấy. Hắn có linh tính cuộc điều tra sẽ không ra ngoài cái cộng đồng người Việt tại Pháp. Bakoula tìm ra liền phương pháp tiến hành điều trạ Hắn không biết gì về giới Việt, vậy thì cần sự cộng tác của một nhà báo nằm trong lòng cộng đồng này. Là người Việt để đồng thời làm thông dịch viên cho hắn.

Tôi được chọn cũng dễ hiểu. Báo chí Việt ở đây ngày một ít đi, cạnh tranh sao được với các video cải lương hài kịch và CD nhạc Việt không dấu. Tờ báo Cộng Đồng Mới, một mình tôi làm, có mặt ở hầu hết các tiệm phở bánh cuốn của cả 3 phố Tàu trong Paris. Tờ báo phát không, nội dung là các trang quảng cáo, mỗi số chỉ cần một hai bài tố cáo tội ác Cộng sản và những bê bối của đảng này phe nọ trong đối lập. Dĩ nhiên không ai dám từ chối cộng tác với cớm. Nhưng phải nói thêm, tôi đâu đã mất hết lý tưởng. Tìm cho ra thủ phạm giết hại người đồng hương là, một mặt hành động cho Công Lý, một mặt trả lời một sự nhục mạ cộng đồng.

Để mở đầu hợp tác giữa Nhà Nước Pháp và media Việt kiều, Maurice Bakoula biết chơi đẹp: cao lâu Quảng Đông sang trọng nhất khu Belleville, món lẩu dê với đầy đủ ngọc dương, bia shintao hết lon này đến lon khác, vân vân... sẽ chấm dứt bằng sake có gái cởi truồng hiện ra ở đáy tách. Tôi không ảo tưởng. Sau này với hắn chỉ còn những bữa Mac Do hay ngậm bánh mì jambon-beurre.

Xin nói rõ, tôi không kỳ thị chủng tộc. Nhưng thằng Bakoula này đen bóng quá, hình như còn có mùi. Nó ăn mặc như trong phim trinh thám Mỹ trên ti-vi, nhưng chắc bố nó trước đây làm công nhân hãng xe Renault.

Tôi hỏi Nhà Nước Pháp:

- Thưa ông thanh tra, không biết ông có tấm hình nào của nạn nhân ?

Sau vài giây do dự, Bakoula lấy ra một xấp hình, nụ cười đểu cáng trên môi. Khủng khiếp !!! Những gì tôi nhìn thấy thật là kinh hoàng ! Một đống thịt bầy nhầy máu đỏ. Máu khắp nơi, máu loang lổ trên những phần thịt rời rạc được chụp từ mọi góc độ. Tôi suýt trả lại hết, nào lẩu dê nào bia lon nào ớt hiểm. Còn cái khuôn mặt nạn nhân nữa ! Thôi thôi, nhất định tôi không tả tiếp ! Mắt tôi hoa lên trước những mảng óc nhơ nhớp, lây láng trên những gì còn lại của một khuôn mặt đã vỡ nát... Thôi !!!

Tiếng cười của Bakoula kéo dài suốt cơn ghê tởm của tôi. Chỉ có giống người nửa khỉ như nó mới có lối đùa thanh nhã như vậy. Rồi nó lấy giọng trìu mến:

- Này chú chệt bé nhỏ của tao, tao giỡn một chút thôi mà. Bây giờ cho mày coi tấm hình của nàng trong thẻ căn cước.

Thằng này mày tao dễ dàng như mọi công an Tây. Tôi lại giựt mình lần nữa. Người đàn bà đẹp tuyệt trần. Tôi không rời được hai con mắt sâu thăm thẳm và đôi môi ướt dày, đậm nét gần một sóng mũi thoáng chút kiêu căng. Phải một lúc sau tôi mới đọc thẻ căn cước. Trần Thị Trầm Thảo, 39 tuổi, sinh tại Sàigòn, quốc tịch Pháp, cao 1m67, cư ngụ Ở khu Bastillẹ Bakoula cho biết thêm: sang Pháp năm 1980, có chồng gốc Việt về Việt Nam từ 4 tháng nay, không con cái. Nghề nghiệp không rõ ràng, khi làm thư ký, khi lo một loại việc giao tiếp trong xí nghiệp. Bố mẹ và cậu em trai cũng sống ở vùng Paris.

Cuối buổi, Maurice Bakoula muốn tạo sự thân mật. Hắn tâm sự thỉnh thoảng nằm mơ thấy một thiếu nữ Tàu da ngà ngọc, mặc áo dài lụa Việt Nam, vừa tẩm quất cho hắn theo kiểu Thái vừa mời hắn từng ngụm trà Nhật. Tôi đề nghị ngay sáng hôm sau đi gặp bố mẹ cô Thảo.



*



* *

1.

Đến trước cửa căn hộ của ông bà Phùng, bố mẹ cô Thảo, hai đứa chúng tôi nghe thấy một loại nhạc kỳ lạ từ trong vọng ra. Chắc chắn không phải nhạc Tây phương. Âm điệu ngân nga nhưng không phải raï1 hay fado 2. Cũng khác các loại nhạc truyền thống Việt Nam: chèo, tuồng, ca trù, tài tử... Gần giống thứ nhạc kinh ở một số chùa hiện đại trong nước, nhưng dùng nhạc cụ điện tử nhiều hơn.

Chúng tôi lại càng ngạc nhiên khi thấy bà Phùng. Bà mặc một loại cà sa bằng giấy bạc màu mè chói lọi, quấn chỗ này chỗ kia những sợi giây thừng cũng đủ màu sắc. Đầu đội một mũ cạc-tông hết sức cầu kỳ. Bước vào phòng khách là lạc vào một không gian dày đặc khói hương, một mê hồn trận làm Bakoula thả ra một trận ho không ngừng. Lúc đó mới thấy nhạc inh ỏi phát ra từ một dàn máy âm thanh nổi. Dàn máy điều khiển luôn một hệ thống đèn màu chớp chớp theo điệu nhạc.

Bà Phùng đang lên đồng một mình, gọi hồn cô con gái vừa mất. Bây giờ tôi mới biết, ở Pháp, lên đồng đã trở thành một sinh hoạt cá nhân, không còn cần đông người. Như vậy đỡ tốn kém, tiền tiết kiệm được có thể đầu tư vào các phương tiện tân kỳ.

Bà mẹ cô Thảo đã nhập hồn từ trước, chỉ rời hồn một lúc để ra mở cửa. Sau đó, đọc một loạt thần chú, cầm bó hương vái 4 hướng, thế là đủ để bà trở lại giọng the thé và thân uốn éo theo điệu nhạc. Bà Phùng, tức là cô Thảo, tiếp tục kể luyên thuyên về mùa đại hạ giá năm nay ở các cửa tiệm Paris.

Bakoula thật chuyên nghiệp, hắn không bỏ lỡ thời cợ Hắn ngồi xệp xuống đất trước mặt cô Thảo và bà Phùng, bắt đầu ngay cuộc thẩm vấn.

BAKOULA: Thưa bà Trần Thị Trầm Thảo, ai đã giết bà ?

HỒN :...

BAKOULA: Tôi xin hỏi cách khác. Theo chủ quan của bà, ai có thể là người kết liễu đời bà?

HỒN :...

BAKOULA : Bỏ mẹ! Hồn không nói tiếng Tây.

HỒN : Si si ! Quand même... 3

BAKOULA: Xin lỗi bà. Tôi chắc hồn vía bà chưa trở về hoàn toàn, sự kiện quá khiếp đản. Bà cứ lấy thì giờ để trả lời.

HỒN :...

BAKOULA: Thử đặt một giả thuyết. Nếu, tôi nói nếu, nếu có người muốn xin bà một tí mật gan, thì bà nghĩ tới ai?

HỒN : Quân tử ố kỳ văn chi trứ.

BAKOULA : Hả?!... Bà nói tiếng la-tinh?

HỒN : Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền...

Thế là hết. Hồn chỉ còn nói ngoại ngữ. Có vấn đề trình độ văn hoá, mà tôi thì hồi đó chưa học hết trung học.

2.

Trước khi chia tay chúng tôi, bà Phùng thở dài:

- Khổ, con Thảo sống ra sao nào tôi có biết. Nó và tôi không thể trao đổi với nhau điều gì. Nó tâm sự mọi thứ với con Jeanne Tuyết. Con nhỏ mới khoảng 25 tuổi, Thảo nó coi như em gái. Nó thiếu em gái mà lị. Con Tuyết này văn minh lắm. Nhưng hơi kỳ kỳ, mấy ông phải cẩn thận.

Chúng tôi được bà cho số điện thoại di động của cô em, bắt được nàng ở chỗ tập thể dục, hẹn đến nhà nàng ngay sau đó.

Giữa Maurice Bakoula và Jeanne Tuyết xảy ra tiếng sét ái tình. Mới trông thấy chàng thám tử nhà nước, đôi mắt mở to của cô Tuyết đã chạy hết chỗ này qua chỗ kia trên thân thể người đàn ông. Còn Bakoula, hắn như kẻ bất chợt mất thăng bằng, cố gắng khom nửa người phía trên xuống thấp, đẩy phía dưới về đằng sau, như bị chao đảo vì một hiện tượng trong quần. Quả thật cô gái đẹp quá lố ! Người cô như muốn nổ tung ra khỏi lớp vải mỏng mềm. Tấm áo, không khuy nào chịu cài, cho đoán hai vú ở trần, mời mọc mọi tưởng tượng. Chiếc váy cực ngắn, cao đến gần rốn, trải ra một bộ đùi dài vô tận. Môi cô rung rung hướng về môi Bakoula, hé mở từ từ cho đầu lưỡi ló dạng. " Hí anh ! " Câu chào hỏi dành trọn cho viên thanh tra, tôi không hiện hữu trên đời này. Bakoula chỉ còn gầm gừ như một con thú, mép mồm đẫm ướt. Cô Tuyết mở nhẹ hai vạt áo vét, cạ ngực mình vào người đàn ông. Mắt cô đã nhắm lại từ lời đón chào. Hơi thở cô bắt đầu trở thành một tiếng rên khe khẽ.

Từ đó tôi biết cuộc gặp gỡ này không cần thông dịch. Tôi đành nói với phần còn lại của Bakoula:

- Đại ca cố gắng đào thật sâu vấn đề. Đàn em ra ngoài hút thuốc.

Lúc họ chia tay nhau dưới đường, Jeanne Tuyết trách yêu anh cảnh sát bơ phờ:

- Làm gì vội thế ! Anh chẳng kịp hỏi cung em. Thôi đêm nay mình hẹn nhau trên internet vậy. Ở chat room4 của website5 www.Vietvidai.Com. Trong phòng đó em sẽ tiết lộ hết cho anh, về đời chị Thảo.

Nhưng không bao giờ có cuộc tái ngộ của đôi uyên ương trong không gian giả tưởng. Gần tới giờ hẹn, ở một cybercafé nổi tiếng cạnh vườn Luxembourg, một thiếu nữ Việt gục chết trên bàn phím máy vi tính, trước một màn ảnh còn tấm hình tổng hợp 3D, giữa một không khí ồn ào nhạc technọ Chỉ về sau mới biết, có chất xia-nuya trong ly coca cô uống ở tiệm.




3.

Rồi hung tín đến từ xạ Ngày hôm sau, Bakoula chìa cho tôi coi bản sao một bức điện tín. Của Lãnh sự quán Pháp ở Sàigòn gửi thẳng Trung ương cảnh sát tư pháp Paris:

" Ngay khi nhận được điện tín của quý vị, chúng tôi đã tìm mọi cách liên lạc với ông Hoang Ba Phi, công dân Pháp hiện ở Sàigòn, để báo tin về cái chết bi thảm của vợ Ông, và đề nghị Ông về gấp Paris gặp quý vị. Chưa có kết quả thì hôm nay phía chính quyền Việt Nam cho biết ông vừa tử thương trong một tai nạn giao thông. Chúng tôi biết tai nạn giao thông ngày càng nhiều ở thành phố này... "

Bakoula giằng lại tờ giấy:

- Tai nạn giao thông cái con khỉ khô ! Tao đã điện thoại về Sàigòn hỏi cho ra hết sự thật. Sự thật là thằng cha này bị một chiếc mô-tô cố tình lao vào người, rồi chà đạp lên hắn nhiều lần trước khi bỏ chạy!

Cảnh sát Pháp có đầy đủ chi tiết. Từ mấy năm nay, ông Phi bỏ bê bà vợ, về Việt Nam đều đều, lấy cớ là để chuẩn bị kinh doanh. Thật ra ông ta có một cô nhân tình xấp xỉ 20 tuổi. Ông Phi đã ngoài 50, có hồi xuân cũng không là sớm. Hôm đó, ông và cô nhân tình đứng ở bến xe đò, chờ xe đi tắm biển Vũng Tàu. Nghe nói khi chết, ông còn bám chặt vào một cái ruột bánh xe to tướng và đen xì mang ra biển làm phao nổi. Chiếc mô-tô thuộc loại Dream Turbo S một ngàn năm trăm phân khối. Cô nhân tình chỉ bị sướt móng taỵ Một tên lừa vợ, lợi dụng gái tơ, gây oán thù ở người khác, hắn được hai chính quyền đồng ý cho chết vì tai nạn giao thông là may lắm rồi. Cái chết vì xe cán, trong trường hợp này, đúng là sạch sẽ. Nhưng Bakoula tức giận là phải, chúng tôi một lần nữa mất đi một nguồn hiểu biết về cô Thảo.

Bakoula còn nghi ngờ:

- Biết đâu việc thủ tiêu thằng già dê này không dính líu mật thiết với vụ giết vợ nó?

- Mô Mô, chắc mày đang nghĩ tới một tổ chức sát nhân có mạng lưới quốc tế.

Tính lãng mạn của Bakoula lại trở về:

- Kể ra đi An Nam một chuyến cũng thích. Có vịnh Along, có Cap Saint-Jacques, có trường Chasseloup-Laubat, có thịt chó...

4.

Chúng tôi đến gặp ông Phùng, bố cô Thảo, ở Hội Cờ Tướng đường Choisỵ Ông ra nơi này giải sầu, ngồi với mấy ông bạn đã về hưu, phần đông là người Hoa trước ở Chợ Lớn. Thời gian ở đây nhảy lùi một phần tư thế kỷ, để từ đó đi về quá khứ. Bakoula bị thấm không khí dư giả thì giờ, kiên nhẫn ngồi chờ ông Phùng nói hết những gì có từ đáy lòng.

Ông bắt đầu nói về cái chết như một khái niệm mới, vượt ra ngoài những nhân sinh quan cổ điển của Á Đông, ông đã nghiên cứu rất kỹ văn minh Tây phương nên tìm ra một triết lý kết hợp Đông và Tây từ cổ xưa đến ngày nay có tính chất vĩnh cửu lấy cái Hồn Việt làm lõi, chết và sống từ đó liên hệ hữu cơ với một vũ trụ muôn vàn kích thước trong đó động và tĩnh chỉ có thể hiểu từ góc độ Hồn Việt, Hồn Việt là một chân lý thật dễ giải thích nếu nhìn thấy rõ rằng bản chất của văn minh dựa trên sự hình thành của một bên là cái mà mọi người thường gọi là Ý một bên là một khám phá của cá nhân ông tạm gọi là Thức nhưng cái hiểu lầm lớn nhất cho tới nay của loài người là tưởng rằng Ý và Thức có thể gặp nhau khiến cho khái niệm thời gian trở thành mâu thuẫn với khái niệm không gian hậu quả ghê gớm là cái chết trở thành một đứt đoạn của đời sống giải pháp duy nhất là xây dựng lại từ đầu cái tư tưởng đẻ ra mọi tư tưởng tức là cái lõi Hồn Việt...

Một tiếng đồng hồ đi qua, Bakoula và tôi say khướt, ngồi gật gù một cách tự động. Mọi suy nghĩ của Bakoula đã bị tràn ngập bởi Hồn Việt. Tôi thì không còn biết xoay xở làm sao với đống khái niệm ngổn ngang trong ý thức. Cái nào đáng lý ra cũng dễ hiểu, cái nào cũng quan trọng dễ sợ, bỏ sót một cái là tiêu đời. Hai chúng tôi cầm tay nhau chệnh chạng ra xe. Đầu óc căng thẳng cực độ, vì Chân Lý lảng vảng đâu đó rất gần. Quên hẳn những câu hỏi về cô con gái ông Phùng.

Mấy ngày sau, giữa chiều, hai tên thanh niên đột nhập vào Hội Cờ Tướng. Mỗi đứa mang một đầu Thằng Bờm phủ kín mặt và một chiếc kiếm dài. Ông Phùng đang thắng thế trong ván cờ trước mặt. Một tên vung kiếm chém ngang cổ ông. Chiếc đầu ông đứt lìa hẳn khỏi thân, tung lên cao mấy phân, đổ xuống bàn cờ tướng, quân cờ tung toé. Ông còn lắc đầu quầy quậy một lúc mới ổn định. Máu chỉ tuôn ra sau đó, nhuộm đỏ dần con mã đen trong tay ông già sắp chiếu tướng. Hai Thằng Bờm không ngừng cười toe toét.

5.

Cảnh sát dĩ nhiên nghiên cứu sổ hẹn của Trần Thị Trầm Thảo. Cuộc hẹn cuối cùng trước án mạng diễn ra chiều hôm trước đó. Ghi rõ: " Gặp Đoàn ở Café La Coupole - Nhớ mang giấy chứng nhận " . Sổ địa chỉ của cô Thảo có tên Nguyễn Văn Đoàn. Tối hôm đó chúng tôi điện thoại, cô con gái ông Đoàn cho biết bố mẹ đi ăn cơm khách. Cô cho luôn tên và địa chỉ chủ nhà.

Ông bà Tiến có một biệt thự lớn ở Sceaux, phía ngoại ô Nam của Paris. Trước cổng nhà chúng tôi nghe rõ tiếng nhạc và tiếng cười nói ồn ào. Bà chủ nhà mới mở cửa đã bị 2 cái sợ: 1) màu đen của Bakoula, ít nhất là phần nhìn thấy trong đêm; 2) thẻ cảnh sát của hắn dí vào mũi bà. Bà nấc lên 3 tiếng rồi chạy vội vào kiếm chồng.

Bác sĩ Tiến đi ra trong bộ đồ khăn đống áo dài. Giọng ông run lẩy bẩy:

- Xin mời quý vi... vào dư... cuộc vui... Mấy ông ạ, tôi thề trên đầu tổ tiên tôi, tôi là người lương thiện... Đúng là có thời kỳ tôi hoạt động chính trị, nhưng đó là cả chục năm nay rồi... Bây giờ vợ chồng tôi chỉ chơi...

Tôi phải giải thích rõ ràng mọi chuyện. Khi hiểu chúng tôi chỉ muốn gặp kỹ sư Đoàn, ông Tiến lấy lại bình tĩnh:

- Anh Đoàn đang chuẩn bị phần hát của mình. Qúy vị, nếu có thì giờ, xin chờ cho xong phần đó, như vậy chương trình văn nghệ không bị xáo trộn. Mời quý vị tham gia dạ vũ. Ở đây chỉ toàn là bạn bè bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, thạc sĩ...

Bakoula và tôi bước vào với nụ cười gắn chắc trên môi. Phòng khách rất lớn, cả một đám đông chen chúc nhau nhảy và ăn uống, nhạc đang là một bài tango trữ tình, với giọng khàn khàn của cô ca sĩ đứng giữa một ban nhạc sống. Ông Tiến nói thật, mọi người ở đây đều thuộc giới thượng lưu của cộng đồng người Việt: kim cương hột xoàn, y phục thời trang đắt tiền, những khuôn mặt tràn trề hạnh phúc, đồ ăn đồ uống khác hẳn những bữa cơm bình dân góc chợ.

Bản tango được tiếp nối bằng một màn ca vũ dân tộc, có tốp nữ và tốp nam. Thật là đẹp ! Các chị mặc áo tứ thân đeo yếm, đầu quấn khăn vải, tay cầm nón ba tầm. Các anh hoặc khăn đống áo dài như ông chủ nhà, hoặc bà ba đen đích thực là nông dân. Những câu hò lời hát đối đáp nhau nhuần nhuyễn. Giữa tốp ca nam và tốp ca nữ, những cái nhìn lẳng lơ và những cái lườm ác liệt làm không khí đậm tình quê hương. Vậy mà đứng gần tôi vẫn có kẻ xấu mồm:

- Gớm cái con mẹ Quế ! Đã bà ngoại rồi mà còn ỏn ẻn như gái còn trinh !

- Nhìn cái thằng Hưng kìa ! Tôi đã bảo bà là nó ngoại tình với con Thu mà. Đấy bà thấy, hai đứa nhìn nhau đắm đuối. Thằng luật sư Hưng này chuyên về các vụ ly dị, nó biết tốn kém ra sao, chẳng đời nào nó bỏ vợ đâu.

Rồi không lâu sau, viên cảnh sát và tên nhà báo chúng tôi trở thành cái đinh của dạ vũ. Đối tượng của mọi cặp mắt và lời xì xào khắp nơi. Tin đồn đại đã loan chuyền nhanh chóng.

- Tao nghi cảnh sát đến chộp một đứa nào đó. Thích quá, mình sẽ được chứng kiến tận mắt một cảnh bắt bớ. Đố biết, trong bọn mình, ai sắp vào tù?

- Đừng đùa ! Chuyện trầm trọng lắm. Chứ như chốn thuế thì tụi nó đâu đến còng tay giữa đêm khuya. Moa không sợ, nhưng không muốn bị bất ngờ.

- Mấy ông nói bậy bạ. Theo tôi, hai thằng này đến bảo vệ một nhân vật chính trị quan trọng. Trong đám chỗ này, tôi không ngạc nhiên nếu có một vị lãnh đạo phong trào đấu tranh cho dân chủ ở nước mình. Nước Pháp là đồng minh của chúng ta, đừng quên điều này.

- Ôi chuyện có gì đâu ! Tây nó thấy tụi mình họp đông như vậy, mà ai cũng giàu có thành công, nên tụi nó đề phòng kẻ ghen tuông tới phá, chỉ thế thôi. Tụi nó cẩn thận cũng có lý.

Bakoula đang điên loạn trong điệu twist khi ông Tiến hớt hơ hớt hải chạy tới hắn. Mặt ông đã thành trắng đen, mặc dù bao nhiêu ánh đèn xanh đỏ bao trùm sàn nhảy. Ông xô viên cảnh sát về phía cầu thang, đẩy hắn lên lầu, mọi người chen lấn nhau phía sau.

Cảnh hãi hùng trong một phòng ngủ: xác chết nằm ngửa, máu tươi tiếp tục lan tràn ra từ ngực, nơi cắm sâu một chiếc dao găm gần lút cán. Kỹ sư Đoàn mắt mở toác. Ông mặc một bộ đồ dân tộc cao nguyên, đầu quấn khăn gắn lông, tay cầm những lời nhạc của bản " Bóng cây Kơ-Nia " . Gần đó có ít nhất là 2 người ngất xỉu và 3 bãi nôn mửa. Những tiếng hét rít lên từ phía cầu thang đã ứ đọng người.

6.

Mặt trời mới mọc khi chúng tôi phóng xe tới chỗ ở của cậu Chiến, em cô Thảo. Lần này Bakoula mang theo khí giới nặng: một khẩu súng lục Magnum 722, trắng bóc, hoa? lực tương đương với một chiếc xe tăng thời đệ nhị thế chiến, vũ khí cá nhân tối tân nhất hiện nay.

Ngân hàng dữ liệu của cảnh sát không biết nhiều về cậu Chiến: 31 tuổi, độc thân, nghệ sĩ trong một lãnh vực chưa có định nghĩa chính xác, sống ngoài cộng đồng người Việt. Nhà cậu ta là một chiếc tàu nhỏ đậu trên sông Seine, ở khúc sông có cầu Issy, không xa nội thành Paris.

Chiến đẹp trai, thân hình nhỏ thon trong bộ quần áo bó sát người. Sống với một gã người Đức to lớn, nét mặt thùy mị, tên Hans Schroumpf. Nhìn họ, cái đầu óc lỗi thời bảo thủ của tôi bám víu vào một hy vọng cuối cùng: quy chế PACS6 không áp dụng cho những cặp chung sống trên sông, không phải trong đất liền.

Nếu nghe theo cậu em thì Trần Thị Trầm Thảo là một con quỷ, không phải người. Ích kỷ tuyệt đối, ác hiểm, tàn nhẫn, hung dữ, dối trá, tham lam, hèn hạ, vân vân... tất cả những gì có thể có trong một nữ tính. " Tâm xà khẩu cẩu " : cô Thảo được tả như vậy. Trọn tuổi thơ ấu của Chiến đã bị bà chị biến thành một địa ngục, trong đó mọi tự do bị tước đoạt thô bạo, nhân phẩm của cậu ta bị nghiền nát đến cùng. Càng nói cậu Chiến càng giận dữ, nước bọt tung toé. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, thủ phạm đây rồi ! Nhưng Bakoula rõ ràng là dày kinh nghiệm, nét mặt hắn lộ vẻ thất vọng chán nản.

Hắn hỏi cho xong:

- Theo anh, ai có lý do để hận thù chị anh đến độ muốn giết chị ?

- Bất cứ người đàn ông nào trên đời này !

Một câu trả lời rỗng thông tin.

Bakoula và tôi rời tàu đi lên chỗ đậu xe. Linh tính bạn tôi một lần nữa thật nhạy bén. Hắn bất chợt quay phắt người, vụt chạy ngược trở lại. Quả nhiên có 2 gã đàn ông đang tiến về phía chiếc tàu, đội đầu Thằng Bờm, cầm súng tiểu liên. Bakoula vừa lao tới phía chúng, vừa rút Magnum. Tôi lấy hết sức chạy theo. Đến chỗ cách hai tên hung thủ khoảng 20 thước, viên thanh tra ngừng lại cú rụp, lấy thế đứng chắc, hai chân dang rộng, hai tay duỗi thẳng với khẩu súng nắm chắc trong hai bàn tay, đầu súng đi lại đều giữa hai bia người.

Một tiểu liên nả đạn trước tiên, tiếng nổ liên tục, đạn ào ạt bắn về phía Bakoulạ Hắn bay xuống đất, lăn mấy vòng, đạn rạch những đường dài sát người hắn. Rồi Magnum bất đầu vào cuộc. Mỗi phát súng nổ như bom, đi đôi với một chớp ánh sáng chói loà. Thằng chủ nhân chiếc tiểu liên khai chiến bị xé xác ra thành nghìn mảnh vụn, như ruốc bông vung vãi tứ phía trong một bán kính gần 10 thước. Tôi nhào về phía thằng còn lại. Quên là mình tay không.

Người tôi đột nhiên đau nhói, khắp thân, thịt ở nhiều chỗ cùng lúc bốc cháy, làm như có hàng loạt cơn đau xuyên thủng người. Tôi hiểu ngaỵ Không nhớ có chào vĩnh biệt Mô Mô chưa, người bạn tôi đã bắt đầu mến. Người ta thường nói, ở những phút cuối, có cả một chuỗi hình ảnh đi qua đầu, có khi đủ để tóm tắt cả một đời người. Nhưng trong trường hợp tôi, chỉ có một hình ảnh duy nhất. Lạ thay đó là một tờ giấy chứng nhận, không kịp đọc là chứng nhận gì.

---------------------

Tôi ngồi bật dậy. Tim đập như muốn vỡ, hàm răng đụng vào nhau liên hồi, mồ hôi đầm đìa. Mắt từ từ nhận ra mình đang trong giường. Một vài vết nắng trên chăn cho thấy đêm đã quạ Tôi cố gắng thở lại đều, xoa nắn các mạch máu. Nhắc đi nhắc lại cho mình: tất cả chỉ là ác mộng, xong rồi, không có gì là thật...

Mấy ngày hôm nay tôi điên đầu vì vụ ly dị. Thảo tiếp tục đòi hỏi thêm. Tôi vẫn thiếu giấy tờ. Mỗi ngày tôi phải sống với cái sai lầm ngu dốt của mình. Thời vợ chồng hoà thuận, tôi để Thảo lo liệu hoàn toàn mọi giấy tờ: sổ sách về tiền bạc, tài liệu chưởng khế, giấy chứng nhận, biên lai, cuống séc... Bây giờ hồ sơ phía Thảo không thiếu một thứ gì, quan toà khen không ngớt. Hồ sơ tôi thì cứ xẹp lép, luật sư chỉ biết thở dài. Cô ta đòi hết món tiền này đến món tiền khác. Của cải tôi cứ thế mà thành mây khói. Mỗi lần đến văn phòng của luật sư, gần Tháp Eiffel, là một lần ra cửa với đầy ý đồ đen tối.


Vũ Hồi Nguyên

1. Nhạc gốc Trung Đông
2. Nhạc cổ truyền Bồ Đào Nha
3. Có chứ! Vừa thôi...
4. Nơi trên mạng internet cho phép người ta trao đổi trực tiếp với nhau
5. Một địa chỉ trên mạng internet
6. Một quy chế mới ở Pháp cho người đồng tình luyến ái thêm nhiều quyền lợi


Hết
Read more…

Truyện trinh thám : Bộ mặt vàng vọt (Sherlock Holmes)

20:42 |

[FD's BlOg] - Tuyển tập truyện trinh thám của Conan Doyle.
Bộ mặt vàng vọt (Sherlock Holmes) - Conan Doyle

Download : Here

Một lần vào đầu xuân, Holmes và tôi cùng đi dạo trong công viên. Những chiếc lá xuân đầu tiên nhú lên các cành cây du, những cái chồi dính dính của hàng cây dẻ đang cựa quậy thành mấy chiếc lá non đẹp. Chúng tôi đi suốt hai tiếng liền. Khi quay trở về thì đã gần năm giờ.
- Thưa ông - Chú bé giúp việc vừa mở cửa vừa nói - Có một vị khách đến... Ông ta hỏi ông.
- Khách đi rồi à? - Holmes hỏi.
- Vâng, thưa ông!
- Sao cháu khong mời ông ta vào nhà ngồi chơi một lát?
- Dạ có, ông ấy có vào nhà.
- Ông ta đợi lâu không?
- Nửa tiếng. Khách rất sốt ruột. Suốt thời gian ở đây ông ta cứ đi đi lại lại khắp phòng. Cuối cùng, ông ấy chạy ra ngoài hành lang và than thở “Không biết đến khi nào ông Holmes mới về?”. Cháu đáp ngay: “Một lát nữa thôi!”. Ông ta nói: “Được, tôi sẽ chờ, nhưng tôi sẽ không chờ ở đây, mà ở nơi không khí thoáng đãng kia! Chốc nữa tôi sẽ quay trở lại”. Thế là ông ấy đi thẳng.
- Giỏi! Cháu đã làm được việc - Holmes nói và chúng tôi bước vào căn phòng của mình - Tuy nhiên, thật là bực mình! Tôi đang buồn chán vì thiếu việc làm. Suy từ sự nôn nóng của người ấy thì chắc công việc này quan trọng đây. Ồ! Chiếc tẩu của ông ta? Chiếc tẩu tuyệt vời với cái tay cầm dài cứng như vậy - Holmes xoay xoay chiếc tẩu trong tay và xem xét nó với vẻ thận trọng.
Anh dùng ngón tay trỏ gõ gõ vào nó tựa như giáo sư giải phẫu học đang giảng về một thứ xương nào đó. Rồi nói tiếp :
- Chủ nhân của nó hẳn là một người vạm vỡ, thuận tay trái, có bộ răng tốt, và là người phong lưu.
- Chỉ vì thấy ông ta có chiếc tẩu đắt giá mà anh cho rằng đó là một người giàu có hay sao?
Holmes khẽ khàng gỡ chiếc tẩu thuốc trong lòng bàn tay của mình :
- Bởi vì ông ta có thể mua thứ thuốc lá hảo hạng đắt gấp hai lần thuốc bình thường.
- Anh còn kết luận nào không?
- Anh ta có thói quen hút thuốc lá dưới ngọn đèn bàn hoặc đèn bằng khí ga: chiếc tẩu cháy xém. Nó bị cháy chỉ ở phía phải : Vậy chủ nhân của nó là người thuận tay trái. Hãy thử châm tẩu thuốc bằng bàn đèn đi. Bởi anh không thuận tay trái, cho nên tự nhiên anh đưa phần trái của tẩu thuốc đến gần ngọn lửa. Sau đó anh ta cắn xuyên qua bót. Chỉ một người khỏe mạnh và có bộ răng tuyệt vời mới có thể làm được chuyện đó... Song nếu tôi không lầm thì kia là tiếng từng bước chân của ông ta ngoài cầu thang!
Chưa đầy một phút sau, cách cửa rộng mở. Một người đàn ông khoảng 30 tuổi, cao lớn bước vào phòng. Ông ta mặc bộ com-lê màu thẫm bằng thứ vải tốt được cắt khéo léo. Tay cầm một chiếc mũ phớt màu xám rộng vành.
- Xin thứ lỗi - Ông ta nói có phần hơi luống cuống - Hẳn là tôi cần gõ cửa. Nhưng quả thực tôi hơi bối rối - Ông ta đưa tay lên xoa xoa trán như một người đầu óc bị choáng váng.
- Ông đã mất ngủ đến hai đêm rồi - Holmes từ tốn nói - Điều đó làm hao kiệt thần kinh nhiều hơn so với làm việc. Xin được phép đề nghị, tôi có thể giúp ông được gì không?
- Tôi muốn được ông khuyên giải, thưa ông...
- Ông muốn tôi giúp ông với tư cách một người tư vấn, một thám tử hay sao?
- Vâng. Ông là người từng trải việc đời. Và tôi muốn ông chỉ bảo cho tôi những việc tôi cần làm - Ông ta nói những câu ngắn, mạnh và đứt quãng.
- Ông Munro thân mến... - Holmes bắt đầu nói.
Vị khách của chúng tôi nhỏm phắt dậỵ
- Sao! Ông biết tên tôi à? - Ông ta kêu lớn.
- Nếu ông muốn ẩn danh - Holmes mỉm cười nói - Thì đừng viết tên mình trên mảnh vải lót của chiếc mũ, hoặc là đừng xoay chiếc mũ lại để người nói chuyện với mình thấy hàng chữ đó. Tôi muốn nói rằng tại căn phòng này, anh bạn của tôi và tôi đã từng nghe nhiều bí mật đáng kinh ngạc. Và chúng tôi đã đem lại niềm thư thái cho bao tâm hồn đầy lo âu. Chúng tôi rất vội, bởi vậy xin ông nhanh chóng kể cho tôi nghe tất cả những gì đã xảy ra.
Vị khách lại lấy tay xoa trán. Ông ta có vẻ khó khăn khi bắt đầu câu chuyện. Mỗi cử chỉ, mỗi nét mặt đều chứng tỏ ông ta là một người kín đáo, giữ ý và kiêu hãnh. Ông ta có thiên hướng che đậy những vết thương lòng của mình hơn là phơi bày ra. Nhưng đột nhiên ông ta giận dữ vung tay lên, tựa như quẳng tính dè dặt vào một hướng nào đó.
- Tôi cưới vợ đã ba năm, chúng tôi hoàn toàn hạnh phúc. Không hề giấu giếm nhau điều gì, cả ý nghĩ lẫn hành động. Thế nhưng, từ thứ hai vừa rồi. Chúng tôi trở thànhh xa lạ với nhau, và tôi muốn biết vì sao như vậy... Tôi biết rõ chưa bao giờ nàng yêu tôi bằng lúc này. Nhưng, nếu điều bí ẩn chắn giữa chúng tôi chưa được tháo gỡ thì mối quan hệ tốt đẹp giữa chúng tôi sẽ không tồn tại.
- Cám ơn ông đã cho tôi biết sự thực. Ông Munro.
- Effie đến Hoa Kỳ sống ở thành phố Atlanta lúc còn rất trẻ. Tại đó nàng kết hôn với một luật sư có tiếng trong vùng. Họ sống hạnh phúc và có một mụn con. Nhưng sau một trận dịch sốt vàng da đã giết chết chồng và con, nàng trở về Anh quốc sống với người dì ở Middlesex. Tôi thấy cần phải nhắc lại rằng sau cái chết của chồng, nàng thừa hưởng một gia tài chừng bốn ngàn rưỡi bảng Anh nằm trong ngân hàng. Hàng năm nàng nhận được bảy phần trăm tiền lãi. Nàng chỉ sống với người dì chừng nửa năm thì tôi gặp nàng. Chúng tôi yêu nhau và sau vài tuần thì làm phép cưới. Lúc đó nàng hai mươi lăm tuổi.
Tôi là nguòi buôn hoa quả. Lãi suất của tôi độ chừng tám trăm bảng Anh một năm, bởi thế chúng tôi sống khá phong lưu: một biệt thự tốt ở Norbury. Thị trấn này không khác thôn quê cho lắm. Tại đó có hai ngôi nhà và một khách sạn cao hơn biệt thự của chúng tôi một chút. Còn ngay phía trước mặt chúng tôi có một vi-la đứng tách riêng ra. Ngoài những ngôi nhà ấy không còn một công trình xây dựng nào ở gần ga hơn nữa. Khi tôi lâp gia đình, vợ tôi đã chuyển giao cho tôi toàn bộ tài sản của nàng. Tôi không đồng ý, vì ngại rằng nếu tôi bị thất bại trong công việc làm ăn, thì vốn liếng của nàng mất hết. Nhưng nàng vẫn nằng nặc đòi làm theo ý mình. Đột nhiên, cách đây hơn một tháng, nàng nói với tôi như thế này :
- Jack này, lúc anh nhận tiền của em, anh nói rằng vào bất kỳ lúc nào em cũng có thể lấy lại số tiền đó.
- Tất nhiên, vì đây là số tiền của em.
- Em đang cần một trăm bảng Anh.
- Để làm gì?
- Anh yêu! - Nàng luống cuống trả lời - Anh nói anh là chủ ngân hàng của em... Thế mà, có bao giờ các chủ ngân hàng hỏi khách rút tiền để làm gì?
- Nếu em cần thì có ngay đây thôi.
- Vâng. Em cần.
- Em sẽ không nói ư?
- Sau này sẽ nói. Còn bây giờ thì không.
“Tôi buộc phải vui lòng với câu trả lời như thế. Từ đây trở đi, nàng không giấu tôi một điều gì nữa. Tôi đưa séc cho nàng và không nghĩ gì thêm về câu chuyện đó. Như tôi vừa nói với ông, có một biệt thự nằm cách không xa ngôi nhà của chúng tôi. Hai căn nhà chỉ cách nhau có một bãi cỏ. Để đến ngôi biệt thự, người ta phải đi theo một con đường và sau đó rẽ vào lối mòn. Ngay phía sau biệt thự, là một cánh rừng thông nhỏ. Tôi rất thích đi dạo trong cánh rừng. Suốt tám tháng ròng, trong ngôi biệt thự không có người ở. Tôi lấy làm tiếc là ngôi nhà lại bỏ không như vậy. Đó là một tòa lâu đài hai lầu xinh xắn, với những cột hành lang cổ kính. Nhiều lần khi dừng lại trước ngôi nhà, tôi tự nghĩ: “Thật là một dinh cơ nhỏ nhắn, đầm ấm biết bao!”
Thế rồi, vào buổi chiều thứ hai tuần truóc. Trong khi đi dạo, tôi nhìn thấy một chiếc xe chở hàng có mui chạy trên đường. Sau đó trên bãi cỏ phía trước thềm chất đống những tấm thảm và các đồ đạc khác. Rõ ràng ngôi biệt thự đã được cho thuê. Tôi đi quanh ngôi nhà, trong một khuôn cửa sổ có một khuôn mặt đang theo dõi tôi. Từ xa, tôi không thể nhìn rõ bộ mặt ấy, nhưng tôi cảm thấy ở đó có một cái gì trái tự nhiên, phi nhân tính. Do ấn tượng này, tôi muốn đến gần hơn để biết ai đang theo dõi mình. Nhưng đúng vào lúc đó, khuôn mặt màu vàng xám xịt đó tự nhiên biến mất. Hình như có ai đứng phía sau kéo người ấy vào. Tôi đứng chừng năm phút nữa, rồi quyết định trèo lên bậc tam cấp, gõ cửa. Ngay lập tức, một người đàn bà cao nghệu với dáng vẻ không hài lòng ra mở cửa.
- Ông cần gì? - Bà ta hỏi với giọng người Scotland the thé.
- Tôi là láng giềng của bà, ở ngay cạnh đây. Tôi thấy bà mới đến. Liệu tôI có thể giúp bà được điều gì chăng?
- Khi nào cần. chúng tôi sẽ gọi! - Bà ta nói và đóng sầm của lại.
Suốt buổi tối, mặc dù tôi cố gắng nghĩ về một điều gì khác, nhưng ý nghĩ của tôi vẫn cứ trở về với bộ mặt thập thò trong cửa sổ và người đàn bà xấc xược đó. Tôi không nói gì cho vợ tôi biết. Nàng là người đàn bà dễ buồn phiền. Chỉ tới lúc đi ngủ, tôi nhận xét qua quýt với nàng là ngôi nhà bên cạnh đã có người ở. Nàng làm thinh.
Đêm hôm ấy, giữa giấc ngủ, tôi mang máng cảm thấy chung quanh mình đang có một cái gì đó diễn ra. Điều sau đây từ từ đến trong ý thức của tôi: Vợ tôi thức dậy, bắt đầu choàng áo ngoài và đội mũ. Trong giấc ngủ, tôi sẵn sàng biểu lộ một cái gì tựa như phản đối hoặc ngạc nhiên. Nhưng, sau khi hé mắt ra, dưới ánh sáng của ngọn nến, tôi thấy mặt nàng xanh mét, nàng thở hổn hển lúc cài áo khoác ngoài vào người và lén lút nhìn vào giường; yên chí là tôi đang ngủ, nàng thận trọng lẻn ra khỏi phòng. Một thoáng sau, tôi nghe có tiếng cót két của chiếc cửa ra vào. Tôi ngồi dậy đập tay mạnh vào thành giường để biết chắc là mình đang thức. Tôi rút chiếc đồng hồ ở dưới gối: ba giờ sáng. Vợ tôi làm gì giữa đêm hôm thanh vắng này?
Tôi ngồi thừ ra đến hai mươi phút, cố gắng tìm ra một lời giải thích nào đó. Nhưng càng suy nghĩ lại càng khó hiểu. Tôi càng lúng túng hơn khi cánh cửa ra vào lại khẽ mở và có tiếng bước chân của vợ tôi trên cầu thang.
- Em ở đâu đấy, Effie? - Tôi hỏi, khi nàng bước vào.
Toàn thân nàng run lên. Nàng khẽ kêu lên một tiếng, sự xúc động và tiếng kêu này khiến tôi lo sợ hơn tất cả. Trong tiếng kêu ẩn chứa một điều tội lỗi. Vợ tôi luôn luôn là người đàn bà trung thực. Bởi thế, tôi lạnh cả người khi nàng len lén đi vào phòng mình.
- Anh không ngủ hay sao, Jack? - Nàng thốt lên trong nụ cười gượng gạo - Em tưởng rằng không gì có thể khiến anh thức.
- Em đã ở đâu? - Tôi lạnh lùng hỏi.
- Em hiểu anh đã ngạc nhiên như thế nào - Nàng nói khi nàng cởi cúc áo khoác. Ngoài ra, tôi còn nhận thấy những ngón tay của nàng run lẩy bẩy - Trước đây em chưa bao giờ nghĩ rằng có một chuyện gì xảy ra với em. Chuyện chỉ có thế này: Đột nhiên em bắt đầu cảm thấy ngột thở. Em cần không khí trong lành. Em đã ra đứng cạnh cửa chừng vài phút, và bây giờ em lại cảm thấy bình thường.
Khi nói những lời này, nàng không quay về phía tôi và giọng của nàng không như mọi khi. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa: nàng đã nói dối. Tôi không trả lời, quay mặt vào tường với nỗi đau đớn trong tim. Vợ tôi đã giấu giếm tôi điều gì? Nàng đã đi đâu? Từ đó cho đến sáng, tôi luôn cựa mình, trằn trọc, gắng tìm một lời giai thích đáng tin cậy hơn.
Ngày hôm ấy, tôi phải ra thành phố. Thế nhưng tôi lo lắng đến mức không làm đưọc việc gì. Vợ tôi hình như cũng lo lắng. Trong lúc ăn sáng, chúng tôi không trao đổi với nhau một lời. Và ngay sau đó tôi đi đến cung điện Crystal, ở đó một giờ đồng hồ và trở về Norbury lúc một giờ trưa. Khi qua tòa biệt thự, tôi dừng lại giây lát, nhìn vào khung cửa sổ? Đột nhiên, cánh cửa mở rộng và vợ tôi từ trong đó bước ra.
Tôi ngây người khi nhận ra nàng. Trong khoảnh khắc tôi cảm thấy vợ tôi muốn ẩn mình vào trong nhà. Tuy nhiên, khi biết mọi sự trốn chạy đều vô hiệu, nàng bắt đầu bước về phía trước và mỉm cười :
- Ôi Jack! - Nàng nói - Em rẽ vào vì muốn biết có thể giúp những nguoì láng giềng của chúng ta được điều gì không? Tại sao anh lại nhìn em như vậy?
- Ban đêm em ở đây phải không?
- Anh muốn nói gì vậy? - Nàng kêu lên.
- Em đã đến đây, anh tin chắc như vậy! Sao em tới thăm họ vào lúc nửa đêm.
- Chưa khi nào em ở đây cả.
- Sao em lại nói dốỉ - Tôi bắt đầu kêu lên - Thậm chí giọng nói của em cũng bị thay đổi khi nghe anh hỏi. Phai chăng em đã có những đdiều bí ẩn đối với anh... Anh sẽ vào biệt thự này và sẽ tự mình khám phá ra tất cả.
- Đừng! Đừng! Anh!...
Nàng thở hổn hển khi không đủ sức che giấu nỗi khiếp đảm của mình. Lúc tôi tới gần cánh cửa, nàng đã túm lấy tay tôi, kéo tôi ra với một sức mạnh không ngờ.
- Em van anh, đừng vào! - Nàng la lên - Em thề rằng sớm hay muộn rồi em cũng kể cho anh nghe tất cả. Nhưng sau, sau này đã... Nếu anh vào ngôi nhà này, một tai họa sẽ xảy ra.
Tôi gắng vùng thoát khỏi tay nàng thì nàng lại càng túm lấy tôi với những lời cầu xin điên cuồng.
- Hãy tin em - Nàng kêu lên - Hãy tin em chỉ lần này nữa thôi! Anh sẽ không bao giờ hối tiếc đâu. Còn nếu như em có giấu anh chuyện gì thì cũng chỉ vì anh mà thôi. Chúng ta sẽ cùng trở về nhà đi, rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy. Còn nếu anh đi vào ngôi nhà này ngoài ý muốn của em thì mối quan hệ của chúng ta sẽ chấm dứt.
Giọng nói của nàng chứa một sự tuyệt vọng chân thật đến nỗi tôi phải dừng lại trước cửa ngôi nhà.
- Anh chỉ tin em với một điều kiện - Cuối cùng tôi nói - Anh muốn tất cả sẽ được mau chóng kết thúc. Em có thể giữ kín bí mật của mình, nhưng hãy hứa với anh là phaỉ ngừng ngay mọi cuộc thăm viếng ban đêm và sẽ không làm một điều gì lén lút nữa.
- Em xin hứa - Nàng thốt lên với tiếng thở phào nhẹ nhõm - Mọi chuyện sẽ diễn ra như ý. Nào, hãy đi về nhà đi!
Nàng vừa nắm lấy tay áo tôi vừa kéo rôi ra khỏi biệt thự. Nhân thể tôi ngoảnh trông lên khung cửa sổ phía trên và tôi lại thấy khuôn mặt màu vàng tái ngắt đang theo doĩ chúng tôi. Có thể có mối liên hệ nào giữa vợ tôl với con người này vậy? Hoặc nàng đã có mối quan hệ gì với người đàn bà thô lỗ hôm trước?
Sau chuyện đó tôi ở nhà luôn hai ngày liên. Hình như vợ tôi nghiêm chỉnh tuân theo các giao ước giữa chúng tôi. Nàng không ra khỏi nhà. Thế nhưng, sang ngày thứ ba thì không thể có lời nguyền nào giữ nổi nàng.
Vàng ngày hôm đó tôi đi ra thành phố và trở về trên chuyến tàu hỏa hai giờ bốn mưới phút, nghiã là về sớm hơn thường lệ. Khi tôi bước vào nhà thì chị hầu phòng chạy ra gặp tôi với bộ mặt đầy vẻ sợ hãi.
- Bà chủ đâu? - Tôi hỏi.
- Hình như bà đi dạo chơi.
Tôi sinh nghi, chạy bổ lên lầu để biết chắc là nàng có ở nhà hay không. Tôi vô tình nhìn qua cửa sổ và thấy chị hầu phìng băng qua bãi cỏ để tới ngôi biệt thự. Tôi hiểu ngay.
Run lên vì phẫn nộ, tôi lao nhanh xuống phiá dưới, bước qua bãi cỏ, quyết chấm dứt vĩnh viễn chuyện này. Tôi trông thấy vợ tôi cùng người hầu gái đang chạy theo lối mòn về nhà. Thế nhưng tôi không đứng lại nói chuyện với họ. Tôi thề phải khám phá ra bí mật này. Không hề gõ cửa, tôi xoay tay nắm cánh cửa, chạy vào hành lang.
Lầu một thật im ắng. Ở nhà bếp, ấm trà đang sôi trên lửa, còn con mèo đen thì đang nằm cuộc tròn. Không thấy bóng dáng người đàn bà tôi gặp trước đây. Tôi chạy bổ sang phòng khác: cũng trống không. Tôi băng mình lên phía trên. Không có ai trong hai phòng. Toàn bộ ngôi nhà không một bóng người. Từ đồ đạc đến cách bài trí đều tuềnh toàng và phàm tục, trừ mỗi một căn phòng mà qua cửa sổ của nó tôi đã nhìn thấy bộ mặt khủng khiếp trước đây. Đó là căn phòng được xếp đặt ngăn nắp và trang nhã. Tất cả mối hoài nghi của tôi đã chuyển thành lòng căm giận mãnh liệt và cháy bỏng khi tôi nhìn thấy bức ảnh toàn thân của vợ tôi trên lò sưởi. Bức ảnh này được chụp theo yêu cầu của tôi cách đây ba tháng.
Tôi ở đó đủ thời gian cần thiết để xác định đây quả thực là một ngôi nhà hoàn toàn trống rỗng. Khi ấy, tôi rời ngôi nhà với một nỗi đau đớn trong tim. Lúc quay về nhà, vợ tôi bước tới gần tôi. Nhưng tôi đau lòng và căm giận tới mức không buồn nói chuyện với nàng. Tôi đi qua chỗ nàng, cố lảng tránh để vào phòng mình. Tuy vậy nàng vẫn theo kịo trước khi tôi đóng cửa lại.
- Rất tiếc là em đã vi phạm lời cam kết. Nhưng giá như anh rõ mọi chuyện thì chắc anh sẽ tha thứ cho em.
- Hãy kể đi!
- Không kể được, Jack ạ.
- Chừng nào em chưa nói ai sống trong căn biệt thự ấy và em đã trao bức ảnh cho ai thì anh sẽ khong bao giờ tin em - Tôi nói lớn và sau khi vùng thoát khỏi nàng, tôi đi ra khỏi nhà. - Chuyện đó xảy ra vào ngày hôm qua, ông Homles ạ! Ngày hôm nay tôi không về nhà. Sự giả dối của nàng đã khiến tôi lo ngại: Sáng nay tôi nghĩ đến ông.
Nãy giờ Holmes ngồi im lặng, chống tay lên cằm hồi lâu. Cuối cùng anh hỏi :
- Ông có cam đoan rằng ông đã nhìn thấy bộ mặt của nguoì đàn ông trong cửa sổ không?
- Lần nào tôi cũng đứng khá xa, nên không dám cả quyết điều đó.
- Có điều nó gây cho ông một ấn tượng khó chịu chứ?
- Nó có vẻ chết chóc và bất động đến ghê sợ. Khi tôi đến gần thì nó lập tức biến mất.
- Bà nhà xin ông 100 bảng Anh hồi naò?
- Cách đây hai tháng.
- Có khi nào ông thấy bức ảnh người chồng trước của vợ ông không?
- Không. Chẳng bao lâu sau khi ông ta chết, ở Atlanta đã xảy ra một vụ cháy lớn, mọi giấy tờ đều bọ thiêu hủy.
- Tuy nhiên bà nhà hẳn có giấy khai tử của ông ta chứ?
- Vâng, nàng có nhận được bản sao sau vụ cháy.
- Có bao giờ ông gặp bất kỳ một ai đã biết vợ ông ở Mỹ không?
- Không.
- Chắc bà có nhận được thư ở bên đó?
- Theo tôi biết thì không.
- Cảm ơn ông! Tôi muốn được suy ngẫm một chút. Có lẽ những người sống trong biệt thự đã dự đoán trước về việc đột nhập của ông, nên họ đi khỏi trưóc khi ông tới. Nếu thế thì rất có thể họ sẽ quay trở về và chúng ta sẽ dễ dàng lý giải mọi chuyện. Vậy ông hãy trở lại Norbury tiếp tục theo dõi các cửa sổ của tòa biệt thự. Nếu ông thấy họ sống trong đó thì đừng có xộc vài, mà hãy đánh điện cho chúng tôi. Một giờ sau khi nhận được điện, chúng tôi sẽ có mặt.
- Còn nếu vẫn chưa có người ở thì sao?
- Nếu thế, ngày mai tôi sẽ đến. Chúng tôi sẽ cùng ông bàn bạc. Xin tạm biệt!
- Anh Watson, có thể đây là một câu chuyện thật tồi tệ - Holmes nói sau khi tiễn chân ông Munro ra khỏi cửa - Anh nghĩ sao?
- Đây là một chuyện hoàn toàn nhơ nhuốc.
- Quả vậy, đây là sự dọa nạt để cầu lợi. Nếu không đúng thế thì tôi rất mực sai lầm.
- Thế ai là kẻ dọa nạt?
- Người sống trong căn phòng đầy đủ tiện nghi ấy, người đã giữ bức ảnh của người đàn bà trên lò sưởi. Bộ mặt màu vàng cạnh cửa sổ không hiểu vì lẽ gì đó, cứ bám chặt lấy tôi. Và tôi quyết không bỏ qua vụ này.
- Anh có giả thiết nào chưa?
- Mới chỉ là giả thiết bước đầu thôi! Trong tòa biệt thự có đức ông chồng đầu tiên của người đàn bà này.
- Vì sao anh nghĩ như thế?
- Khi người chồng hiện tại định vào nhà, bà đã sợ hết hồn. Tại sao vậy? Theo tôi, sự thật là thế này: Người đàn bà đã lấy chồng ở Mỹ. Sau đó anh ta trở thành người đáng ghét đối với bà. Chúng tôi giả thiết ông ta có thể bị bệnh phong hoặc có thể thành kẻ ngu đần. Rốt cuộc bà bỏ ông ta, và trở về nước Anh, thay tên và bắt đầu sống lại từ đầu. Bà đi bước nữa hồi ba năm về trước và đã coi địa vị của mình là hoàn toàn vững chắc. Thế nhưng nơi ở của bà bị phát hiện hoặc bởi người chồng đầu tiên, hoặc bởi nguòi đàn bà trâng tráo gắn bó với người bệnh. Họ viết thư cho bà ta, đe dọa là sẽ đến tố giác bà. Bà ta dùng 100 đồng để đưa cho họ im. Do vậy mà họ đã đi đến đó. Khi người chồng vô tình nói cho bà hay về sự xuất hiện của những người mới tới ở tòa biệt thự. Bà ta đã đoán đuoc đó chính là những kẻ đang săn lùng bà. Sau khi chờ chồng mình ngủ say, bà chạy tới đó thuyết phục họ để bà được sống yên lành. Lần đầu không đạt, bà lại tới chỗ họ vào sáng hôm sau. Nhưng vừa ra khỏi nhà thì bắt gặp chồng. Bà hứa với chồng là sẽ không vào đó nữa. Tuy vậy, hai ngày sau, hy vọng được thoát khỏi những người láng giềng lại bùng lên trong lòng bà. Không kìm hãm nổi, bà toan trở lại mặc cả với họ. Bà đã trao bức ảnh của mình là theo đòi hỏi của họ. Giữa lúc chuyện trò, người hầu gái chạy tới báo cho họ biết là ông chủ đã về nhà. Khi ấy, người vợ đã dẫn họ theo lối cửa sau, có lẽ ra ngoài rừng thông bên cạnh. Như vậy người khách của chúng ta chỉ thấy một ngôi nhà trống không mà thôi.
- Theo tôi đấy mới chỉ là phỏng đoán.
- Đúng vậy. Nhưng nó soi sáng hết thảy. Nếu các sự kiện mới nổi lên mà không thể giải thích được, chúng ta sẽ có đủ thời gian để chuyển qua xem xét giả thiết của tôi. Chúng ta chưa thể bắt tay vào cuộc nếu chưa nhận được tin tức của ông ta từ Norbury.
Chúng tôi không phải chờ đợi lâu. Bức điện đã đến ngay sau bữa điểm tâm. “Biệt thự có người. Lại nhìn thấy bộ mặt trong cửa sổ. Gặp lúc 7 giờ. Không tiến hành chừng nào các ông chưa đến”.

Ông ta đợi chúng tôi tại sân ga, mặt xanh xao, cả người run rẩỵ
- Họ còn ở đấy, ông Holmes ạ! - Ông nói sau khi cầm tay bạn tôi - Tôi trông thấy ánh sáng trong tòa nhà khi đi qua đó.
- Kế hoạch của ông thế nào?
- Tôi muốn đột nhập vào đó: nếu chính mắt mình trong thấy một kẻ nào đó trong nhà, tôi yêu cầu các ông trở thành nhân chứng.
- Ông kiên quyết như vậy?
- Cương quyết.
- Thôi được, ông có lý. Bất kỳ sự thật nào cũng tốt hơn tình trạng không rõ ràng như hiện giờ. Cố nhiên chúng ta vi phạm luật, nhưng việc này nên làm như thế.
Đêm hôm ấy trời tối đen như mực. Khi chúng tôi từ đường lớn rẽ vào lối mòn thì trời bắt đầu mưa lâm râm, ông Munro lao mình về phía trước, chúng tôi theo sau.
- Lửa sáng của ngôi nhà tôi ở đằng kia kìa! - Ông vừa chỉ vào ngọn lửa lấp ló giữa lùm cây vừa lầu bầu nói.
- Còn đây là tòa biệt thự, tôi sẽ vào đó.
Chúng tôi rẽ vào lối mòn và tiến sát đến tòa nhà. Cánh cửa ra vào hé mở. Một vệt sáng nổi rõ trên nền đất đen. Có một cửa sổ trên gác thượng sáng rõ. Chúng tôi thấy vệt thẫm chuyển động theo rèm cửa.
- Tên súc sinh ở đó đấy! - Munro thốt lên - Chính các ông trông thấy nó là ai rồi! Bây giờ hãy theo tôi.
Chúng tôi tiến đến gần cửa chính. Đột nhiên từ trong bóng tối, một người đàn bà bước ra, dang hai tay ra phía trước, van nài :
- Trời ơi! Không nên, anh! - Bà kêu lên - Em biết thế nào anh cũng sẽ đến. Hãy bình tĩnh lại. Anh yêu quý! Hãy một lần nữa tin vào em và rồi anh sẽ không bao giờ hối hận đâu!
- Từ lâu tôi đã tin bà! - Ông lãnh đạm trả lời - Hãy buông tôi ra, tôi cần vào trong đó! Còn đây là những người bạn của tôi. Họ đến để giúp tôi chấm dứt vĩnh viễn cái việc tồi tệ này.
Ông gạt bà sang một bên, và chúng tôi cùng bước theo. Lúc ông ta đẩy cửa thì có một bà già chạy ra, toan cản đường. Munro đẩy bà ta ra. Một loáng sau chúng tôi đã leo lên cầu thang. Munro vượt lên phía trước, nhìn thẳng căn phòng sáng choang chạy tới. Chúng tôi theo sát ông. Đấy là căn phong đầy đủ tiện nghi được xếp đặt ngay ngắn. Hai ngọn nến đang cháy trên lò sưởi. Trong góc phòng, một người nào đó đang xoay lưng lại phía chúng tôi. Rõ ràng là một cháu gái bé nhỏ. Cháu mặc váy đỏ và đeo găng tay trắng. Đột nhiên cháu quay về phía chúng tôi và kêu lên vì kinh ngạc và hãi hùng. Bộ mặt cháu thật là kỳ quái: nhợt nhạt và bất động như mặt người chết.
Holmes bật cười lấy tay xoa tóc cháu bé. Cái mặt nạ rơi xuống. Trước mặt chúng tôi là một con bé da đen. Cháu mỉm cười vui vẻ. Hàm răng trắng toát. Vẻ mặt kinh ngạc của chúng tôi khiến cháu phì cười. Tôi cười hả hê với nỗi vui sướng của cháu. Nhưng Munro xấu hổ, ép chặt tay vào ngực, không rời mắt khỏi cháu.
- Thế này là thế nào? - Ông ta kêu lên.
Người đàn bà với khuôn mặt quả quyết và kiêu hãnh bước vào phòng, lên tiếng.
- Ông ép tôi phải nói ra tất cả những gì ngoài mong muốn của mình. Tôi buột lòng vậy. Chồng tôi chết ở Atlanta nhưng đứa bé thì còn sống.
- Đứa con của bà?
Bà ta gỡ từ cổ ra một sợi dây chuyền có treo một kỷ vật.
- Ông chưa bao giờ trông thấy ông ta à?
- Chưa.
Bà ta bấm nút, nắp bật ra. Trong có bức chân dung của một người có khuôn mặt mang những nét của gốc người Phi thông minh, sáng đẹp đến lạ lùng.
- Ông ta đấy - Bà ta nói - Trên trái đất này chưa bao giờ có một người cao thượng hơn thế. Tôi đã rời bỏ quê hương của tôi để lấy ông. Khi ông còn sống, tôi không một lần nào luyến tiếc về việc đó. Như các ngài thấy đấy, đứa trẻ duy nhất của chúng tôi giống bên nội hơn. Nó đen hơn cha nó. Song đen hay trắng thì nó cũng là máu thịt của tôi, là đứa con yêu quý của tôi! Tôi để nó lại Mỹ bởi vì nó yếu quá. Tôi gửi cho một người đàn bà Scotland trung thành với chồng tôi. Nhưng khi tôi gặp ông, tôi đã yêu ông. Tôi buộc lòng phaỉ chọn lựa hoặc là ông, hoặc là con mình. Ba năm sau, tôi đã giấu ông về sự tồn tại của nó. Người bảo mẫu báo cho tôi tất cả và tôi biết là đứa con gái của tôi thực sự khoẻ mạnh. Cuối cùng tôi mong mỏi được gặp lại nó. Tôi biết điều đó nguy hiểm, nhưng tôi quyết định chuyển đứa bé tới đây trong một vài tuần lễ. Tôi chuyển cho người bảo mẫu 100 bảng Anh và hướng dẫn cho bà ta biết tòa biệt thự này để có thể ở đó như một người hàng xóm. Để phòng ngừa trước, tôi yêu cầu người bảo mẫu ban ngày cần đeo cho đứa trẻ chiếc mặt nạ và găng tay để nếu có ai trông thấy nó trong cửa sổ thì sẽ không bàn tán về sự hiện diện của đứa bé da đen ở đây.
Đầu tiên ông nói với tôi là tòa biệt thự đã có người thuê. Lúc đó tôi không sao ngủ được vì xúc động. Rốt cuộc tôi đã lẻn ra ngoài khi biết là ông đang ngủ say. Thế nhưng ông đã phát hiện ra, và chính là điểm khởi đầu cho những nỗi bất hạnh của tôi. Ba ngày sau đó, người bảo mẫu và đứa trẻ chỉ vừa kịp chạy qua của sau thì ông đã ập vào nhà... Bây giờ ông đã biết hết rồi, ông quyết định như thế nào tùy ông.
Bà ta nắm chặt lấy tay mình, buồn bã chờ đợi câu trả lời. Munro không nói lời nào, đến bế đứa bé lên, hôn nó và sau khi chìa tay ra cho vợ mình cầm, ông bước ra khỏi cửa, ngọt ngào nói :
- Tốt hơn chúng ta về nhà. Anh là một người không được tốt lắm. Effie ạ! Song anh cho rằng anh tốt hơn là em nghĩ về anh.
Holmes và tôi bước theo sau họ trên con đường mòn. Sau đó Holmes kéo tay áo tôi lại :
- Thôi! Chúng ta ở Luân Đôn sẽ có ích lợi hơn ở Norbury.
Anh không nói thêm một lời nào về chuyện đó. Tuy nhiên vào tối hôm đó, lúc đã khuya anh cầm ngọn nến nhỏ vào phòng ngủ và nói :
- Anh Watson, nếu một lúc nào đó, anh thấy tôi trở nên quá tự tin, hoặc làm việc ít hơn so với sự đòi hỏi của công việc thì hãy nói nhỏ vào tai tôi : “Norbury!”. Tôi sẽ vô cùng cảm tạ anh.

HẾT
Read more…

Truyện trinh thám : Bí mật ở thung lũng Boscombe - Conan Doyle

20:15 |

[FD's BlOg] - Tuyển tập truyện trinh thám của Conan Doyle.
Bí mật ở thung lũng Boscombe (Sherlock Holmes) - Conan Doyle

Download : Here

Vào một buổi sáng. Khi hai vợ chồng tôi đang điểm tâm chợt con hầu chạy vào đưa cho tôi bức điện của Sherlock Holmes, nội dung bức điện như thế này :
“Cậu có thể vắng nhà hai ngày được không? Tớ được mời đến miền Tây nước Anh vì một câu chuyện đau đớn đã xảy ra ở thung lũng Boscombe. Rất sung sướng nếu cậu cùng đi với tớ. Thời tiết rất tuyệt. Chúng ta sẽ đi từ ga Paddington vào lúc 11 giờ 15 phút”.
- Anh sẽ đi chứ? - Vợ tôi âu yếm nhìn tôi và hỏi.
- Anh chưa biết nữa. Hiện anh có nhiều bệnh nhân quá...
- Ồ, ngài Anstruther sẽ tiếp nhận hết, lo gì! Trong thời gian gần đây anh không được khỏe lắm. Cuộc dạo chơi này sẽ bổ ích cho anh đấy. Hơn nữa anh bao giờ cũng quan tâm đến từng công việc của ngài Sherlock Holmes kia mà?!
Kinh nghiệm trong những năm sống hoang dã tại Afghanistan đã làm cho tôi cứng cáp chai sạn trong những chuyến đi tham quan dài ngày. Đồ đạc của tôi rất giản đơn vì vậy tôi ngoi lên chiếc xe ngựa sớm hơn dự định và phóng nhanh ra ga Paddington.
Sherlock Holmes đang đi dọc theo chỗ đợi tàu. Bộ quần áo đi đường màu nâu với cái mũ nỉ làm cho thân hình gầy, cao của anh càng gầy nhom và dài ngoằng ra.
- Rất tuyệt, cậu đã đến? Watson - Sherlock nói
- Tớ rất mừng khi bên cạnh tớ là một người mà tớ hoàn toàn tin cậy.
Cảnh sát địa phương đã bất lực, hoặc đi theo hướng sai lầm. Cậu nhảy lên chiếm hai chỗ trong góc toa, còn tớ chạy lấy hai cái vé.
Khi chúng tôi ngồi yên vị trong toa tàu, Holmes lấy báo ra đọc, thỉnh thoảng anh dừng lại ghi chép và nghĩ ngợi.
Tàu đến ga Reading. Bỗng Sherlock vò nát tất cả giấy tờ lại một nắm và ném vào gói hành lý.
- Cậu đã nghe nói gì về câu chuyện này chưa? - Anh hỏi.
- Chưa nghe. Đã mấy ngày nay tớ chưa hề ngó tới một tờ báo!
- Các báo xuất bản ở Luân Đôn đều đăng rất cụ thể. Tớ vừa mới đọc lướt qua để hiểu rõ ràng hơn. Nhưng hình như đó là một trường hợp không phức tạp lắm, nhưng người ta cho là rất khó giải quyết.
- Những lời cậu nói nghe mới ngược đời làm sao!
- Nhưng đó là sự thật. Trong ngược đời thường có những căn cứ để làm sáng tỏ chân lý, vụ án càng đơn giản bao nhiêu thì càng khó phá bấy nhiêu... ở trường hợp này quan trọng là chứng cớ chống lại con trai của kẻ bị giết.
- Tức là có vụ giết người à?
- Họ cho là như vậy. Còn tớ thì chưa khẳng định khi tớ chưa tìm hiểu cụ thể sự việc. Tớ chỉ giải thích được cho cậu trong chừng mực nào đó về tình trạng hiện nay mà tớ biết được.
Thung lũng Boscombe là vùng nông thôn gần thị trấn Ross, thuộc miền Herefordshire. Một chủ đồn điền lớn nhất vùng ở vùng ấy là ngài John Turner. Ông ta đã làm giàu bên Áo và vài năm trước đây đã trở về tổ quốc. Ông ta cho ngài Charles McCarthy thuê một trang trại của mình - người này trước kia cũng sống ở bên Áo. Họ quen nhau trong những năm bôn ba đất khách quê người và khi thay đổi môi trường sống họ vẫn quan hệ với nhau như những người bạn. Thực ra mà nói ngài Turner giầu có hơn, còn ngài McCarthy thì mướn ruộng đất của ngài Turner, nhưng quan hệ của họ vẫn thân thiết. Ngài McCarthy có một cậu con trai khoảng 17-18 tuổi; còn ngài Turner thì có một cô con gái độc nhất cũng trạc tuổi như vậy. Cả hai người cha ấy đều góa vợ. Họ có vẻ như muốn lẩn tránh giao thiệp với những gia đình khác và sống rất tách biệt, mặc dù họ rất yêu thích thể thao và thường tham gia đua ngựa. Ngài McCarthy chỉ thuê một người hầu trai và một người hầu gái. Ngài Turner giầu có hơn nên thuê nửa tá người hầu. Đó là tất cả những gì tớ biết về hai gia đình ấy. Còn bây giờ là những điều đã xảy ra với họ.
Vào, ngày mùng 3 tháng 6, có nghĩa là vào hôm thứ hai. vừa rồi, ngài McCarthy đi đến Hatherley vào lúc 15 giờ chiều rồi sau đó ra hồ Boscombe. Đấy là một cái hồ không lớn lắm, hồ này do một con suốt nhỏ đổ vào, con suối ấy chảy dọc theo thung lũng Boscombe. Buổi sáng ông ta ra thị trấn Ross và có nói với người hầu là ông ta rất vội vì đúng 15 giờ có cuộc hẹn hò rất quan trọng. Sau cuộc hẹn không thấy ông ta trở về nữa. Từ trang trại Hatherley đến hồ Boscombe khoảng một phần tư dặm Anh. Trong lúc ông ta đi đến đây thì có hai người nhìn thấy. Người thứ nhất là một bà già không thấy nhắc tên trên báo. Còn người thứ hai là ông William Crowder - người kiểm lâm của ngài Turner. Cả hai nhân chứng này đều nói rằng ngài McCarthy chỉ đi có một mình. Người kiểm lâm còn bổ sung một chi tiết nữa là, sau cuộc gặp gỡ McCarthy cha không lâu, thì anh ta lại nhìn thấy James McCarthy. Anh chàng này mang theo khẩu súng săn bên mình. Người gác rừng khẳng định là chắc chắn người con trai cũng đi theo gót cha. Người gác rừng hoàn toàn quên biến cuộc gặp gỡ kia, nhưng đến tối khi nghe câu chuyện đau đớn xảy ra thì anh ta bỗng nhớ tất cả.
Hồ Boscombe được bao bọc bởi một khu rừng rậm rạp, xung quanh bờ lau sậy mọc um tùm. Con bé Patience Moran 14 tuổi, con người bảo vệ rừng, trong lúc hái hoa ở khu rừng bên cạnh đã nhìn thấy hai cha con nhà McCarthy đang cãi nhau gay gắt. Cô ta nghe thấy tiếng quát của ông bố như tát nước, còn người con trai giơ tay lên như định dọa đánh bố mình. Cô bé hoảng sợ trước cảnh tượng như vậy và vội vàng chạy về nhà kể lại cho bố mẹ nghe những gì đã xảy ra. Cô bé kể xong câu chuyện đó được một lát thì người con trai McCarthy lao đến gặp người gác rừng anh ta thều thào rằng vừa thấy bố mình bị sát hại và nhờ người gác rừng ra giúp một tay. Anh ta hoảng sợ mất bình tĩnh, trên người không súng, không mũ và ở cánh tay phải có dính những vệt máu còn mới nguyên. Người gác rừng nhanh chóng đi theo anh ta đến chỗ người bị giết. Xác chết nằm sõng sượt trên bãi cỏ gần mép nước. Sọ người chết bị dập dập bởi một thứ vũ khí nặng và tà đầu. Những vết thương kiểu ấy chỉ có thể do báng súng gây ra, khẩu súng săn của anh con trai vứt lăn lóc cách thi hài chỉ vài ba bước. Trước những tang chứng đó, người con trai bị bắt ngay lập tức. Vào ngày thứ ba người ta đã buộc tội sơ bộ: “Một vụ giết người có chủ tâm”. Vào hôm thứ tư cậu McCarthy phải ngồi ghế bị cáo của tòa sơ thẩm huyện Ross - Công việc chưa ngã ngũ ra sao còn phải đợi ngày ra tòa chung thẩm. Tất cả những sự kiện và dữ kiện ấy thì cảnh sát an ninh đã nắm đầy đủ hết.
- Khó lòng mà tưởng tượng nổi, quả là một sự việc hèn hạ và bỉ ổi! - Tôi nhận xét. - Đây là trường hợp mà bằng chứng gián tiếp đủ vạch mặt kẻ phạm pháp, tớ chưa thấy bao giờ.
- Mọi chứng cớ gián tiếp đều dễ đánh lừa lắm. - Holmes đăm chiêu nói. - Nó có thể chứng minh theo một hướng rõ ràng; nhưng nếu cậu có khả năng phân tích những dẫn chứng ấy, thì cậu có thể phát hiện ra những chứng cứ này thường không dẫn chúng ta đi đến chân lý, mà đi vào một hướng phi chân lý. Chắc chắn giờ đây sự việc đang dồi chống lại người con trai; loại trừ khả năng chính cậu ta là kẻ phạm pháp thật sự. Tuy thế vẫn có người làm chứng cho sự vô tội của cậu ta. Đó là nàng Turner - con gái ngài Turner. Tiểu thư đã nhờ luật sư Lestrade bào chữa cho bị cáo. Ngài luật sư Lestrade cho rằng bào chữa trong trường hợp này sẽ rất khó, vì vậy ông ta chuyển nó đến tôi và nhờ tôi giải quyết giúp. Thế là có hai thám tử hiện đang trên đường phóng tới miền Tây với tốc độ 50 dặm một giờ, để đến sáng mai có thể đàng hoàng ăn điểm tâm tại nhà.
- Tớ chỉ ngại, - Tôi nói. - Từ một dữ kiện buộc tội đã qua rồi, khả năng giành thắng lợi trong vụ này của cậu sẽ bị hạn chế.
- Những sự kiện, hiển nhiên không thể che mờ tất cả - Sherlock vừa cười vừa nói - Nhưng, nếu chúng ta cũng có khả năng tìm được những chứng cứ hiển nhiên không thể chối cãi được như thế thì sao. Biết đâu chúng nó sẽ có ích cho ngài Lestrade. Cậu đã hiểu tớ quá rồi, trong suy nghĩ cậu đừng cho tớ là kẻ khoác lác. Tớ hoặc là sử dụng những dữ kiện do Lestrade thu thập được, hoặc là tớ bác bỏ hoàn toàn: bởi vì ngài Lestrade không hiểu một tí gì hết. Chỉ cần ví dụ như thế này: Tớ biết buồng ngủ của cậu quay về phía bên phải, nhưng chắc chắn ngài Lestrade chưa biết điều đó.
- Quả thật như thế thì có sao đâu?...
- Anh bạn thân mến của tôi ơi! Tớ với cậu quen nhau đã lâu và tớ rất rõ tính cẩn thận của cậu. Mỗi buổi sáng cậu đều cạo râu dưới ánh sáng mặt trời - Phía bên trái khuôn mặt của cậu cạo không được tốt bằng phía bên phải. Điều đó chứng tỏ bên má phải cậu được ánh sáng chiếu nhiều hơn bên má trái.
Cậu là một con người cẩn thận, ăn mặc chải chuốt, cho nên khi quan sát thấy như vậy tớ đã có kết luận đúng đắn. Tớ chỉ ví dụ thế thôi, một ví dụ đơn giản về quan sát để rút ra những kết luận. Nghề nghiệp của tớ chỉ gói gọn trong mấy thứ ấy và có thể nó rất cần thiết cho công việc sắp đến của chúng ta. Có một vài chi tiết nhọ mọn được làm sáng tỏ trong lúc hỏi cung cậu con trai làm cho tớ chú ý.
- Cậu chú ý cái gì?
- Người ta đã đến bắt McCarthy con sau đó một chút khi anh ta đã về đến trang trại Hatherley, khi cảnh sát đọc lệnh bắt, anh ta nói rằng - điều đó không làm anh ta ngạc nhiên chút nào, vì anh ta đáng bị trừng phạt. Lời của anh ta mang tính chất phục tùng. Điều đó đã làm tiêu tan những nghi ngờ của ngài thẩm vấn.
- Một sự thú nhận tội lỗi! - Tôi thốt lên.
- Không đâu, sau đó anh ta mới bào chữa cho sự trong sạch của mình.
- Nhưng những lời bào chữa xuất hiện sau những chứng cớ xác đáng đến khủng khiếp như vậy, càng làm họ nghi ngờ thêm.
- Ngược lại, - Holmes nói - Đó chính là một, đốm sáng duynhất mà tớ hy vọng sẽ nhìn thấy từ trong đám mây đen. Chính chàng trai kia cũng không thể ngờ rằng tai họa đang giáng xuống đầu cậu ta. Nếu anh ta giả vờ làm bộ ngạc nhiên và chống đối khi được tin mình bị bắt, thì điều đó, càng vạch mặt kẻ dối trá mà thôi. Bởi vì mọi sự công phẫn trong bối cảnh phức tạp như vậy chỉ là một sự giả dối trắng trợn. Thái độ bàng quan, thờ ơ của anh ta trong giây phút bị bắt, hoặc nói lên anh ta vô tội hoặc ngược lại, nó vạch trần tính từ chủ có ý định và lòng kiên nghị của anh ta. Khi anh ta nói anh ta bị bắt là điều hiển nhiên mà thôi, vì anh ta đã quên mất, nghĩa vụ làm con của mình, đã dám lăng mạ cha mình, còn định đánh nữa. Câu trả lời ấy nói lên sự ăn năn hối hận, lương tâm anh ta bị vò xé, điều này làm cho tớ nghĩ anh ta là người trong sạch hơn là một kẻ giết người.
Tôi ngao ngán lắc đầu.
- Nhiều người đã bị treo cổ vì những bằng chứng nhỏ như thế. - Tôi nhận xét.
- Đúng như vậy, và trong số họ cũng có nhiều người bị treo cổ oan ức.
- Thế cậu đã có cách gì để cứu vớt chàng thanh niên kia chưa?
- Chưa có gì đặc biệt để giúp cho ngài luật sư bào chữa cho anh ta cả mặc dù rằng có đôi chút hy vọng. Đây cậu đọc xem có tìm thấy gì không?!
Anh lấy trong cặp ra vài tờ báo địa phương, lật qua mấy trang rồi chỉ cho tôi mấy dòng tự khai của anh bạn trẻ McCarthy. Tôi ngồi vào một góc toa tàu và chăm chú đọc tờ báo.
Ngài James McCarthy được gọi lên chất vấn. Anh ta khai :
- Tôi vắng mặt ở nhà ba ngày đêm; những ngày này tôi ở Bristol và trở về nhà vào đúng hôm thứ hai tuần vừa rồi, ngày mùng ba khi tôi về tới nhà thì không thấy cha tôi ở nhà; người hầu gái nói lại rằng cha tôi đi ra thị trấn Ross cùng với gã đánh xe ngựa John Cobb. Một lúc sau tôi nghe thấy tiếng kêu của cỗ xe ngựa trước nhà, và nhìn qua cửa sổ tôi thấy cha tôi đang rất vội ở ngoài sân; tôi không biết cha tôi đi về hướng nào. Tôi vớ lấy khẩu súng săn của mình quyết định đi đến hồ Boscombe để săn thỏ ở bãi đất bỏ hoang nằm bên kia bờ hồ. Trên đường đi tôi có gặp bác coi rừng William Crowder, như điều bác nói trong bản tường trình, tuy nhiên bác ta đã nhầm cho rằng tôi có ý định chạy theo cha tôi. Tôi không biết là cha tôi đang đi phía trước.
Khi cách hồ chừng một trăm bước, tôi nghe thấy tiếng kêu “Cooee” tiếng mà cha con tôi vẫn thường hay gọi nhau. Tôi liền chạy đến chỗ phát ra tiếng gọi ấy và tôi nhìn thấy cha tôi đang đứng cạnh hồ. Cha tôi rất ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi và hỏi một cách giận dữ rằng tôi làm gì ở đây? Cuộc nói chuyện đi đến chỗ gay gắt suýt nữa thì xảy ra ẩu đả, vì cha tôi là một người rất nóng tính. Khi cảm thấy cha tôi không thể kìm chế được cơn giận nữa, tôi quyết định chuồn về trang trại Hatherley. Khi đã đi được một quãng, tôi bỗng nghe thấy tiếng kêu lạnh buốt xương sống, thế là tôi lập tức quay trở lại. Tôi nhìn thấy cha tôi nằm sõng xoài trên mặt đất. Ở đâu có một vết thương gớm ghiếc, toang hoác miệng, cha tôi đang thoi thóp thở. Khẩu súng săn trên vai tôi rơi xuống lúc nào không hay, tôi nâng đầu cha tôi lên, nhưng trong khoảng tích tắc ấy cha tôi đã ngừng thở. Tôi quì gối bên thi hài vài phút đồng hồ, sau đó tôi chạy đến gặp người gác rừng của ngài Turner nhờ bác ta giúp một tay, vì ngài nhà của bác ấy gần hơn cả. Khi quay lại chỗ cha tôi, tôi không nhìn thấy ai cả, do vậy tôi không biết được ai đã giết cha tôi. Ở đây, rất ít người biết cha tôi, bởi tính tình của cha tôi xưa nay rất ngại tiếp xúc với mọi người xung quanh. Nhưng tôi cũng biết là cha tôi hiện nay không có kẻ thù.
Người thẩm phán :
- Cha anh nói gì với anh trước lúc tắt thở không?
Bị cáo :
- Cha tôi có lắp bắp mấy tiếng không rõ, tôi chỉ nghe thấy một từ hình như là “Arat” (Con chuột cống).
Thẩm phán :
- Điều gì đã làm cho anh và cha anh cãi nhau?
Bị cáo :
- Tôi không thể nói chuyện đó ra đây được.
Thẩm phán :
- Rất tiếc là tôi buộc anh phải trả lời.
Bị cáo :
- Nhưng tôi không thể trả lời câu hỏi đó. Tôi thề với ngài là câu chuyện của chúng tôi không hề liên quan đến câu chuyện đau đớn đó.
Thẩm phán :
- Quan tòa sẽ quyết định chuyện đó. Tôi chỉ nói cho anh biết việc từ chối câu trả lời sẽ bất lợi cho anh.
Bị cáo :
- Tôi sẽ không bao giờ trả lời chuyện ấy đâu.
Thẩm phán :
- Cha con anh thường dùng tiếng “Cooee” để nói với nhau phải không?
Bị cáo :
- Vâng.
Thẩm phán :
- Có nghĩa là, cha anh đã phát ra tiếng ấytrước khi ông biết anh đã từ Bristol trở về có phải không?
Bị cáo :
- Tôi không biết nữa.
Ông chánh án :
- Anh không phát hiện một dấu hiệu nghi vấn gì khi anh chạy đến chỗ bố anh bị nạn à?
Bị cáo :
- Tôi không phát hiện được cái gì rõ rệt hết.
Thẩm phán :
- Thế nghĩa là thế nào?
Bị cáo :
- Tôi hồi hộp và sợ hãi đến nỗi khi chạy ra khỏi khu rừng, tôi chỉ nghĩ đến cha tôi, ngoài ra không còn chú ý gì nữa.
Tôi chỉ mang máng nhớ là bên trái có một vật gì, hình như là tấm khăn choàng. Khi tôi đứng lên khỏi cha tôi, tôi nhìn quanh tìm vật ấy, nhưng nó đã biến mất.
- Anh có cho là vật ấy biến mất trước lúc anh chạy đi nhờ người giúp chăng?
- Vâng.
- Anh cố nhớ xem vật ấy là cái gì?
- Không, tôi chỉ cảm thấy có vật gì đó, thế thôi.
- Vật đó cách chỗ người chết bao xa?
- Khoảng mười bước chân.
- Và cách với góc rừng bao xa?
- Gần bằng nhau.
- Có nghĩa vật ấy cách anh khoảng hai mươi bước chân?
- Vâng, nhưng tôi quay lưng về phía nó.
Cuộc hỏi cung được kết thúc ở đây”.
- Tớ thấy vào cuối cuộc hỏi cung, ngài thẩm phán hơi khắt khe với anh chàng McCarthy. - Tôi nói, sau khi đã đọc xong những dòng ghi trên báo. - Ông ta chứng minh những mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo là hoàn toàn có căn cứ. Tại sao người cha gọi tên con khi biết con mình hoàn toàn không có mặt? Ngay cả chuyện cậu con trai từ chối không cung khai về nội dung câu chuyện giữa anh ta với người bố. Sau cùng là lời thốt ra khó hiểu của người bố khi sắp chết. Ngài thẩm phán nhận xét tất cả đều hết sức chống lại anh ta.
Holmes đổi tư thế ngồi, vui vẻ nói :
- Cậu và ngài thẩm phán cùng đau đầu vào chuyện không đâu: trong khi đó thì vứt bỏ hết cái có lợi cho anh ta. Chẳng nhẽ cậu không thấy anh ta diễn đạt lúc thì quá nhiều, lúc thì quá ít ư? Quá ít - vì McCarthy trai trẻ không thể bịa ra một nguyên nhân nào về chuyện cãi cọ với bố. Nếu anh ta giải thích cho ngài chánh án thì tội anh ta sẽ được nhẹ hơn. Quá nhiều - Vì anh ta có thể bịa đặt ra “con chuột cống” của kẻ hấp hối và chuyện chiếc áo tự nhiên biến mất. Tớ có nhận xét như thế này : những gì McCarthy con khai đều là sự thật. Hãy xem giả thiết ấy sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu? Chúng ta tạm dừng câu chuyện, vì chúng ta chưa đi đến nơi xảy ra án mạng. Hai chúng ta sẽ dùng bữa ăn sáng thứ hai ở Swindon. Chỉ còn 20 phút nữa chúng ta sẽ đến.
Tàu đã vượt qua thung lũng Stroud và chạy vào thị trấn bé nhỏ Ross - Lúc này đã gần 16 giờ. Ra đón chúng tôi ở sân ga là một con người cẩn thận, có cặp mắt tinh ranh như loài cú vọ.
Anh ta mặc chiếc áo khoác màu xám và đi ủng cao gót phù hợp với vùng nông thôn này. Tôi nhận ra đó chính là ngài Lestrade từ Scoland đến. Chúng tôi cùng anh ta đi đến “Hereford Arms” ở đây, người ta đã chuẩn bị phòng ngú cho chúng tôi.
- Tôi đăng ký một cỗ xe ngựa rồi, - Sau khi uống một chén trà, ngài Lestrade nói. - Tôi đã biết cách thức làm việc của ngài, ngài không thể ngồi yên được khi chưa trực tiếp đến chỗ xảy ra vụ án mạng.
- Ngài chỉ quá khen đấy thôi - Holmes trả lời. - Bây giờ tất cả mọi việc đều phụ thuộc vào kết quả chỉ của phong vũ biểu.
Lestrade kinh ngạc, không hiểu gì.
- Tôi hoàn toàn không hiểu ý của ngài. - Anh ta nói.
- Phong vũ biểu chỉ bao nhiêu? - 29 hả - sẽ không có gió trên bầu trời không có một gợn mây - có nghĩa là không có mưa. Chúng ta cần hút vài điếu đã. Ghế đệm ở đây cũng tươm tất sạch sẽ hơn bất kỳ khách sạn nào ở nông thôn. Tôi sẽ không dùng đến cỗ xe của ngài trong buổi chiều hôm nay.
Lestrade cười trịch thượng và nói :
- Chắc ngài đã đi đến một kết luận thì phải vì ngài đã đọc hết bản luận tội đăng trên báo? Sự việc quá rõ ràng, rõ như tôi thấy ngài. Càng nhìn càng rõ thêm. Nhưng tất nhiên không nên từ chối lời thỉnh cầu của một cô gái đẹp và đáng yêu như thế? Cô ta có nghe nói về ngài và hy vọng ngài sẽ bào chữa cho bị cáo; mặc dù đã nhiều lần tôi nói cho cô ta biết là ngài cũng đang khoanh tay không thể làm hơn những gì mà tôi đã gắng hết sức. Xe của cô nàng đã đến đây!
Trong lúc Lestrade đang thao thao bất tuyệt thì một người con gái duyên dáng bước vào phòng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai đẹp như cô ta! Cặp mắt xanh biếc, đôi môi hé mở dịu dàng, đôi má ửng hồng, trông cô xinh xắn và dễ thương làm sao?! Nỗi lo lắng làm cho cô gái quên cả e dè.
- Ôi! Thưa ngài Sherlock Holmes? - Cô ta thốt lên đưa cặp mắt đẹp như mơ nhìn từ Sherlock sang tôi và cuối cùng bằng linh tính đặc biệt, của giới phụ nữ, cô ta dừng mắt lại ở chỗ bạn tôi - Tôi rất sung sướng vì ngài đã có mặt ở đây! Tôi đến đây để nói cho ngài rõ câu chuyện. Tôi tin là James vô tội. Ngài hãy bắt đầu công việc, khi tôi nói cho ngài rõ. Ngài đừng nghi ngờ gì hết dù chỉ trong một phút thôi. Tôi kết bạn với anh ấy từ thời thơ ấu kia, nên tôi hiểu anh ấy hơn ai hết, tôi biết những nhược điểm của anh ấy. James nhân ái đến nỗi không làm đau đến cả một con ruồi. Những ai quen biết anh ấy đều cho lời buộc tội là hoàn toàn phi lý.
- Tôi hy vọng, chúng tôi sẽ bào chữa được cho anh ấy, thưa tiểu thư Turner xinh đẹp? - Sherlock nói. - Tiểu thư hãy tin tưởng tôi sẽ làm hết sức của mình.
- Ngài đã đọc được những lời buộc tội ấy chưa? Ngài có ý kiến gì không? Ngài có thấy một tia hy vọng nào không? Ngài tin là anh ấy vô tội chứ?
- Tôi cho rằng rất có thể.
- Thế là anh ấy sẽ được tha! - Cô gái vui mừng ra mặt và ngẩng cao đầu, đưa cặp mắt dò hỏi nhìn ngài Lestrade. - Ngài có nghe thấy gì không? Giờ thì tôi có thể hy vọng được rồi.
Lestrade nhún vai nói :
- Tôi chỉ sợ anh bạn của tôi hơi vội vã trong lời kết luận của mình. - Nhưng ông ấy nói đúng. Tôi tin ông ấy! James không thể là tên giết người. Còn chuyện dính dáng đến vụ cãi cọ với cha anh ấy tôi biết hết - Và nguyên nhân nào khiến cho anh ấy không nói với ngài thẩm phán vì chuyện này có dính líu đến tôi.
- Như thế nào thưa tiểu thư? - Sherlock hỏi.
- Bây giờ là lúc tôi không phải dấu giếm cái gì hết. Vì tôi mà James đâu có những bất đồng với cha anh ấy. Cha của James thì muốn chúng tôi lấy nhau. Chúng tôi yêu nhau, như anh em ruột thịt. Nhưng anh ấy, tất nhiên, còn quá trẻ, chưa hiểu gì về cuộc đời... và... và... Nói tóm lại, anh ấy chưa muốn cưới vợ. Vì thế mà có cuộc cãi cọ kia. Tôi tin tưởng rằng đó là một trong những nguyên nhân của cuộc cãi vã.
- Ý kiến cha tiểu thư như thế nào? - Holmes hỏi. - Ông ấy có muốn anh chị lấy nhau không?
- Cha tôi rất phản đối. Ngoài cha của James ra thì khôngai ủng hộ cuộc hôn nhân này cả.
Holmes ném cái nhìn dò xét lên khuôn mặt cô gái làm cô ta ngượng ngùng đó bừng cả mặt.
- Xin cám ơn tiểu thư về nguồn tin mới mẻ, - Holmes nói. - Ngày mai tôi có thể gặp cha của tiểu thư không, nếu ngày maitôi ghé thăm?!
- Tôi e rằng bác sĩ sẽ không cho gặp?!
- Bác sĩ ư?
- Vâng, chẳng lẽ ngài không biết sao? Trong những năm gần đây, cha tôi hay ốm lắt nhắt, nhưng cũng đủ làm cho cha tôi kiệt sức hoàn toàn. Cha tôi chỉ nằm suốt ngày, còn ngài bác sĩ Willows nói: Cha tôi bị chấn thương sọ não vì bị kích động mạnh. Ngài McCarthy là người duy nhất ở đây biết được cha tôi trong thời gian ở Victoria xa xôi.
- Sao? Cha của tiểu thư đã từng ở Victoria hả?
- Vâng, cha tôi tham gia vào đoàn tìm kiếm.
- Tôi hiểu. Ngài Turner đã làm giàu tại những mỏ vàng có phải không, thưa tiểu thư?
- Vâng, đúng thế, thưa ngài.
- Xin cảm ơn tiểu thư. Tiểu thư giúp cho tôi rất nhiều.
- Ngày mai, nếu có tin tức gì mới ngài hãy làm ơn cho tôi biết với! Chắc ngài sẽ đến gặp anh James ở trại giam phải không? Nếu gặp ngài hãy nói giúp rằng tôi bao giờ cũng tin là
anh ấy vô tội.
- Tiểu thư cứ an tâm, thế nào tôi cũng nói lại điều đó.
- Tôi phải về nhà gấp. Cha tôi hiện đang nguy kịch và cần có tôi bên cạnh. Xin tạm biệt ngài, cầu chúa phù hộ cho ngài trong công việc.
Cô gái vội vã bước ra khỏi phòng và chúng tôi nghe tiếng cỗ xe đang xa dần.
- Tôi ngượng thay cho ngài, ngài Holmes ạ! - Lestrade nói với giọng đàn anh, sau một phút im lặng - Ngài hy vọng làm gì chứ?! Không phải tôi lo quá xa đâu, nhưng ngài làm như vậy quả là liều lĩnh.
- Tôi nhìn thấy con đường mà tôi sẽ đi - James McCarthy, Holmes nói - Ngài có giấp phép vào thăm trại giam không?
- Có đây nhưng chỉ dùng cho hai người thôi.
- Như vậy, tôi sẽ thay đổi chương trình là không đi đâu nữa. Chúng ta có kịp thời gian đi đến trại giam Hereford để thăm tù nhân không?
- Hoàn toàn kịp.
- Chúng ta cùng đi? Watson, tớ sợ cậu buồn nhưng chỉ sauhai giờ tớ sẽ quay về đây.
Tôi tiễn họ ra bến xe. Sau đó đi bách bộ dọc các đường phố của thị trấn. Rồi quay về khách sạn, tôi nằm xuống xa lông và lấy cuốn tiểu thuyết ra đọc. Nhưng cuốn sách không ăn nhập với câu chuyện đáng thương đang hiện ra trước mắt tôi. Tôi nhận thấy tất cả mọi ý nghĩ của mình lúc này đều quay về thực tại. Tôi ném cuốn sách vào góc phòng và thử ôn lại trình tự, suy luận về những sự kiện. Cứ cho những lời khai của chàng thanh niên kia là đúng đi, thì liệu có con quỷ nào lọt vào khoảnh khắc ngắn ngủi giữa lúc chàng trai đi khỏi và chạy lại với tiếng kêu của người cha. Ai vào đây? Điều này thật là kinh khủng, đáng sợ. Tôi là bác sĩ, công việc sẽ được rõ ràng hơn, nếu tôi đưa xem xét những vết thương. Tôi gọi điện và đề nghị cung cấp cho tôi tất cả những số liệu và kết quả của cuộc giải phẫu giám định đầy đủ nhất.
Trong bản kết luận của nhà giải phẫu cho biết: xương đỉnh phía sau và phần trái của xương chẩm bị vỡ do một cú giáng rất mạnh bằng một vũ khí không nhọn. Tôi tự sờ lên đầu mình để kiểm tra, không còn nghi ngờ gì nữa, cú đánh như vậy chỉ có thể thực hiện từ phía sau lưng nạn nhân. Điều này sẽ biện hộ phần nào cho bị cáo, vì trong lúc cãi nhau người ta nhìn thấy anh ta đứng đối diện với người cha: Cần phải nói cho Sherlock biết điểm này. Tôi nhớ đến từ “con chuột cống”, có ý nghĩa gì nhỉ.
Trong trường hợp này thì không phải là lời nói mê.
Con người trước lúc chết vì bị đánh bất ngờ, không bao giờ nói mê cả. Chẳng lẽ, ông ta muốn giải thích tại sao ông ta chết?
Ông ta muốn nói điều gì? Tôi cố gắng hết sức để tìm ra một lời lý giải thích hợp. Tôi nhớ lại trường hợp chiếc áo xám ma quỷ.
Nếu đúng như vậy thì có một kẻ thứ ba đã bỏ quên chiếc áo khi bỏ chạy và liều lĩnh quay lại lấy ngay sau lưng cậu con trai, cách cậu ta chỉ 20 bước chân. Toàn bộ câu chuyện này là một vấn đề khó hiểu và khó tin!
Lời nhận xét của Lestrade không làm cho tôi kinh ngạc, nhưng tôi tin vào tầm nhìn xa trông rộng của Holmes nên tôi không mất hy vọng. Đến lúc này tôi có cảm giác là Sherlock đã tóm được một vài chi tiết để củng cố lương tâm của mình về sự trong trắng, vô tội của James.
Khi Sherlock về thì trời đã tối từ lâu. Anh đi một mình vì Lestrade nghỉ lại ngoài thành phố.
- Phong vũ biểu vẫn chưa chịu hạ tí nào. - Anh ngồi xuống và nói, - Chỉ cầu sao cho trời đừng có mưa vào lúc chúng mìnhchưa đến nơi xảy ra án mạng? Con người cần phải dồn sức lực, trí tuệ và nhiệt tình vào công việc nhân đạo. Thật lòng mà nói tớ cũng chưa hứng thú bắt tay ngay vào công việc vì tớ rất mệt sau một chuyến đi xa như vậy. Tớ đã gặp anh chàng McCarthy rồi.
- Gặp anh ta, cậu có hiểu thêm gì không?
- Không có gì mới cả.
- Sự việc không sáng sủa à?
- Tuyệt nhiên không. Lúc đầu tớ có ý nghĩ là anh ta đã biết rõ họ. tên kẻ sát nhân, nhưng muốn giấu. Đến giờ thì tớ khẳng định là chính anh ta cũng đang thắc mắc như mọi người khác. McCarthy không phải là người khôn ngoan cho lắm, song rất dễ thương. Tớ có cảm nghĩ anh ta là người tốt.
- Tôi không tán thành quan điểm của anh ta. - Tôi nhận xét. - Nếu đó là sự thật thì tại sao anh ta không chịu cưới cô tiểu thư Turner kiều diễm kia làm vợ.
- Cũng vì thế mà xảy ra câu chuyện đáng tiếc! Anh ta yêu tiểu thư Turner chân thành tha thiết, và say đắm. Nhưng cậu thử nghĩ xem? Anh ta đã làm gì cách đây hai năm, khi còn là một thằng con nít mới lớn, lúc ấy tiểu thư Turner đang học ở trường nội trú, cậu biết không? Thằng ngốc ấy bị rơi vào tay một cô gái bán hàng ở Bristol và dại đột đăng ký kết hôn với cô ta. Về chuyện này thì không một ai biết cả. Cậu thử tưởng tượng xem, đối với anh ta thật là đau đớn khi phải nghe hoài những lời trách móc của người cha! Nỗi tuyệt vọng bao trùm, ám ảnh anh ta, khi anh ta giang hai tay lên trời cầu cứu để trả lời đề nghị của cha anh ta là kết hôn với tiểu thư Turner. Mặt khác, anh ta hết khả năng tự bào chữa rồi, và người cha, theo mọi người nói là kẻ hẹp hòi, đố kỵ, sẽ đuổi cậu ta ra khỏi nhà nếu biết được tất cả sự thật. Chàng thanh niên đã sống với người vợ của mình ở Bristol trong ba ngày cuối cùng, nhưng người cha không biết cậu ta ở đâu. Hãy ghi nhớ kỹ điểm ấy.
Điều này rất quan trọng. Trong cái rủi lại có cái may. Cô bán hàng khi nghe tin chồng mình bị kết tội nặng và có thể không lâu sẽ bị treo cổ nên đã bỏ anh ta ngay lập tức. Cô ta tự thú nhận trong một bức thư gửi cho chồng là từ lâu cô ta đã có một người chồng chính thức khác ở Bermuda; cô ta trắng trợn tuyên bố giữa cô ta và James McCarthy không hề có sự ràng buộc nào hết. Tớ nghĩ tin ấy phần nào đền bù nỗi đau khổ của cậu McCarthy.
- Nếu cậu ấy vô tội thì ai là thủ phạm gây án mạng?
- Đúng, kẻ giết người là ai? Tớ lưu ý cho cậu hai điểm sau đây: thứ nhất - Người đã khuất cần gặp ai đó bên hồ, người đó không thể là con trai ông ta được, bởi người con trai đã đi khỏi không biết bao giờ mới về. Thứ hai - Người cha gọi “Cooee” trước khi ông tà nhìn thấy con trai. Đó là nút chính, nhờ nó mà chúng ta làm thấy đổi được tình thế. Còn bây giờ hãy nói đến những sáng tác mới của George Meredith nếu như cậu thích. Hay để những công việc thứ yếu khác đến mai.
* * * * *
Đúng như Sherlock mong muốn, hôm qua trời không mưa.
Sáng nay trời quang đãng không một bóng mây. Vào lúc 9 giờ Lestrade đến đón chúng tôi đi trên cỗ xe ngựa, chúng tôi tiến về trang trại Hatherley và từ đó đi bộ đến hồ Boscombe.
- Có một tin quan trọng. - Lestrade nói. - Nghe nói là ngài Turner ốm nặng đến nỗi khó lòng mà qua được.
- Hình như ông ấy già lắm phải không? - Holmes hỏi.
- Khoảng 60 tuổi, nhưng ông ta mất sức từ ngày ở đoàn tìm kiếm và từ lâu đã mang bệnh hiểm nghèo. Ông ta là bạn cũ của ngài McCarthy, hơn thế còn là ân nhân nữa. Tôi được biết ngài Turner không lấy tiền thuê trại Hatherley của ngài McCarthy.
- Ồ! Điều này rất lý thú đấy các vị ạ? - Holmes bỗng reo lên.
- Vâng, ngài Turner giúp đỡ ngài McCarthy bằng mọi biện pháp có thể được. Ở đây mọi người đều nói là ngài Turner đối xử với bạn rất tốt.
- Sao ngài lại nghĩ thế! Ngài không lấy làm lạ là ngài McCarthy không giầu có gì mà lại tính đến chuyện cưới cô tiểu thư Turner xinh đẹp - người thừa kế duy nhất gia tài kếch sù cho con trai? Ngài biết rồi đấy ông Turner chấp nhận cuộc hôn nhân ấy.
Chính tiểu thư Tenter đã nói. Ngài có thể rút ra kết luận gì bằng phương pháp suy diễn.
- Chúng tôi đã suy diễn và rút ra những kết luận lôgic nhất. - Lestrade nói và nháy mắt ra hiệu cho tôi. - Ngài cứ tiếp tục sử dụng các dữ kiện ấy, nó có thể đi xa chân lý để rơi vào thế giới hão huyền. - Sự thật thì bao giờ cũng là sự thật. - Holmels nói, - Ngài sử dụng dữ kiện không tốt lắm.
- Tôi chỉ nhấn mạnh một dữ kiện, mà đối với ngài thì khó hiểu - Lestrade nói.
- Dữ kiện nào?
- Là McCarthy cha đón nhận cái chết bi thảm của mình từ McCarthy con, còn tất cả mọi giả thiết khác bác bỏ nó - chỉ là vệt sáng trăng.
- Nhưng dù sao vệt sáng trăng còn sáng hơn sương mù? - Holmes vừa cười vừa nói. - Nếu tôi không nhầm thì bên trái kia là trang trại Hatherley.
- Đúng, chính nó.
Đó là một ngôi nhà hai tầng khang trang đầy đủ tiện nghi,được lợp bằng tôn Fibrôximăng, rêu bám từng mảng lớn ở mặt tiền sảnh. Những tấm rèm thả xuống bịt kín mít các cửa sổ trông rất ảm đạm; những ống khói đã mấy hôm nay không có khói bay. Những cái đó đã làm cho ngôi nhà trở nên hiu quạnh; dường như án mạng đang phủ lên, đè nén mấy bức tường với tất cả sức phá hoại ghê gớm của nó.
Chúng tôi gọi cửa. Người hầu gái, theo yêu cầu của Holmes, chỉ cho chúng tôi đôi giày của chủ nhân đã mang trong ngày hôm ấy, và đôi giày của cậu con trai đã mang. Holmes ngồiđo từng li từng tí đôi giày; sau đó anh đề nghị người ta dẫn chúng tôi ra sân, từ đó chúng tôi đi theo đường mòn quanh co uốn khúc dẫn đến hồ Boscombe.
Sherlock biến đổi hoàn toàn, khi anh lôi theo dấu vết bẩn thỉu. Những người đã từng biết ngài thám tử lừng danh ở hẻm Baker, lúc này chắc không thể nhận ra anh được. Anh ta ủ dột, mặt hơi phớt hồng, cặp mắt lấp lánh dưới hàng mi đen chạy dài.
Đầu anh cúi xuống, cặp vai nhô lên, đôi môi cắn chặt: trên cái cổ gân guốc hằn rõ những đường mạch máu xanh. Hai lỗ mũi của anh phồng lên như cặp mũi của những nhà đi săn thú lão luyện.
Anh say mê công việc đến nỗi không trả lời bất cứ câu hỏi nào, hoặc nếu có chỉ nhấm nhẳn cho qua chuyện. Anh đi âm thầm, nhưng rất nhanh theo lối mòn xuyên qua một cánh rừng và đồng cỏ tới hồ Boscombe. Đó là vùng đầm lầy trước kia nay đã khô ráo giống như cả vùng thung lũng. Trên lối mòn, hai bên có những loại cỏ dại thấp mọc dày xuất hiện những dấu vết dẫmnát. Holmes lúc thì vội vội vàng vàng, lúc thì dừng hẳn lại. Có một lần anh bất thình lình quay lại và đi ngược vài ba bước.
Lestrade và tôi theo dõi anh từng bước. Lestrade thì quan sát với thái độ thờ ơ, khinh khinh ra mặt, còn tôi luôn luôn theo sát Sherlock với sự hứng thú trong lòng, bởi tôi dám khẳng định là mỗi động tác của anh đều dẫn tới một kết cục tốt đẹp.
Hồ Boscombe rộng chừng 50 yard, lau sậy bao bọc xung quanh. Nó kéo dài trên ranh giới của trang trại Hatherley và địa hạt của ngài Turner giàu có. Ở phía xa, nơi khu rừng chạy dài đến tận bờ xa tắp, thấp thoáng những ngọn tháp nhọn đỏ chót.
Ở phía Hatherley khu rừng rất rậm rạp, um tùm; chỉ có một khoảng đất hẹp, rộng chừng hai mươi bước là có cỏ dại mọc và một số cây sậy còn sót lại bao quanh. Lestrade chỉ cho chúng tôi chính xác nơi nạn nhân ngã xuống. Mảnh đất chỗ ấy bị dẫm nát đến nỗi tôi dễ dàng nhận ra ngay nơi nằm của người bị giết.
Còn những gì liên quan thì Holmes quan sát rất kỹ lưỡng.
Holmes chăm chú nhìn kỹ đám cỏ bị xéo nát. Anh chạy đi chạy lại, sau đó lại gần người bạn đồng hành với chúng tôi.
- Ngài đã làm những gì ở đây?
- Tôi đã cào xới khắp bãi cỏ, tìm kiếm một loại vũ khí và những chứng cớ khác, nhưng ngài đã thấy đấy...
- Thôi đủ rồi. Tôi không có nhiều thời giờ! Dấu chân tráicủa ngài hiện lên khắp nơi. Thậm chí con chuột chù cũng có thể đánh hơi được điều đó. Còn đến chỗ đám lau sậy thì dấu vết biến mất. Nếu tôi đến đây trước khi bị đàn trâu dẫm nát thì mọi việc sẽ đơn giản! Những người ra đây đã làm loạn xị ngậu mọi dấu vết xung quanh chỗ nạn nhân chừng 6 hoặc 7 foot.
Sherlock lấy kính lúp ra rồi nằm xuống tấm vải không thấm nước để quan sát và thì thầm nói với bản thân mình hơn là nói với chúng tôi.
- Đây là dấu vết của anh chàng McCarthy, anh ta đã điqua đây hai lần và một lần chạy nhanh đến nỗi vết giầy hầu như khó nhìn thấy, những vết còn lại thì rất rõ. Những dấu vết này khẳng định cho lời khai của anh ta. Chàng thanh niên chạy đến nhìn thấy cha mình đang nằm gục trên mặt đất. Tiếp theo là những dấu chân của người cha đi lui đi tới. Cái gì thế này? À, dấu vết của báng súng khi người con đứng và dựng súng xuống nghe cha nói. Còn đây nữa? Cái gì nhỉ? Có một người đi rón rén trên đầu các ngón chân! Đây là đôi giày không bình thường, hình như hình vuông?! Hắn đến rồi chuồn khỏi, rồi lại đến, chắc là để lấy chiếc áo. Nhưng hắn từ đâu đến?
Holmes chạy đi chạy lại quan sát, đôi lúc mất dấu vết, đôi lúc nhìn thấy. Trong lúc đó chúng tôi chưa đi vào bìa rừng, dưới bóng một cây bạch dương to già cỗi, Holmes đã bắt được các dấu vết, anh nhẹ nhàng nằm xuống. Bỗng anh reo lên sung sướng.
Holmes nằm yên rất lâu, lật đi lật lại những chiếc lá cây và cành cây khô queo, nhặt bỏ vào phong bì một vật gì đó giống như là bụi đất. Anh thận trọng nhìn qua kính lúp một chiếc vỏ cây, một hòn đá có cạnh không đều nhau. Anh cầm hòn đá lên và ngắm nghía vẻ thỏa mãn, sau đó anh theo lối mòn dẫn đến một con đường ở đây mọi dấu vết bị xóa sạch.
- Hòn đá này quan trọng đấy. - Anh nhận xét khi đã quay lại với giọng nói bình thường. - Ngôi nhà xam xám phía bên phải kia có lẽ là nhà của người gác rừng. Tôi sẽ ghé lại chỗ ngàiMoran để nói vài lời và viết một bức thư. Rồi chúng ta sẽ về khách sạn trước bữa ăn sáng thứ hai. Hai người cứ đi đến xe ngựa trước, tôi sẽ tới sau.
Sau 10 phút, chúng tôi về tới thị trấn Ross. Hòn đá nhặt được ở trong khu rừng vẫn nằm trong tay Holmes.
- Vật này có thể sẽ làm cho ngài chú ý, thưa ngài Lestrade. - Holmes chìa hòn đá ra. - Đây chính là vũ khí mà kẻ sát nhân đã dùng.
- Tôi không nhìn thấy vết tích nào cả?!
- Đúng, không có.
- Vậy làm sao ngài quả đoán như thế?
- Vì dưới hòn đá này cỏ vẫn mọc bình thường.
Có nghĩa nó nằm chỉ vẻn vẹn có vài ngày. Còn xung quanh không thấy dấu chỗ hòn đá được nhặt lên. Hòn đá này tương xứng với những thương tích. Không có dấu vết của loại vũ khí nào khác.
- Ai là kẻ sát nhân?
- Đó là một người cao to, thuận tay trái và bị thọt chân phải. Hắn mang giày đi săn, đế to và mặc bành tô xám. Hút thuốc Ấn Độ bằng tẩu, ở trong túi thì có chiếc dao cùn gấp cán. Có nhiều đặc điểm nữa, nhưng như thế cũng đủ cho chúng ta tìm kiếm.
Lestrade cười mỉm.
- Đáng tiếc, đến bây giờ tôi vẫn là kẻ hoài nghi. - Ông ta nói. - Mọi giả thiết của ngài đều chí lý, nhưng chúng ta cần làm việc với đạo luật của Hoàng gia nước Anh.
- Chúng tôi sẽ tìm thấy. - Holmes bình tĩnh trả lời. - Ngài có cách của ngài, tôi có phương pháp của tôi. Thật tuyệt vời, có thể hôm nay tôi sẽ về Luân Đôn trong chuyến tàu tối.
- Ngài bỏ dở công việc ư?
- Không, mọi việc đã sáng tỏ.
- Bí mật là gì?
- Chiếc màn bí mật đã được vén lên.
- Ai là kẻ sát nhân?
- Kẻ mà tôi vừa mô tả.
- Nhưng hắn là ai?
- Ồ, có khó gì đâu, dân cư ở đây không nhiều nhặn gì.
Lestrade nhún vai :
- Tôi là con người thực tế - Ông ta nói - Không thể tìm kiếm một người chỉ thọt chân phải và thuận tay trái. Chắc tôi sẽ bị cả vùng Scoland chế nhạo mất thôi.
- Được, - Holmes điềm đạm trả lời, - Tôi sẽ cho ngài biết mọi khả năng để tìm ra điều bí mật. Tôi không cần che giấu, còn ngài có lẽ sẽ khám phá ra vụ án khó hiểu này.
Sau khi từ biệt ngài Lestrade, chúng tôi quay về căn buồng của mình, ở đây bữa ăn sáng thứ hai đã dọn sẵn.
Holmes im lặng, trầm ngâm suy nghĩ. Khuôn mặt của anh buồn rười rượi, giống như khuôn mặt của một người rơi vào tình trạng khó giải quyết.
- Hãy nghe đây Watson, - Anh nói, khi người hầu đã dọn xong mọi thứ trên bàn ăn, - Cậu ngồi vào kia, tớ sẽ kể cho cậu nghe một số điều tớ biết. Không hiểu tớ phải làm gì bây giờ? Tớ muốn nghe ở cậu một lời khuyên. Cậu hãy hút thuốc đi, tớ sẽ bắt đầu.
- Nào, kể đi.
- Trong khi nghiên cứu công việc, tớ nhận thấy có hai điểm trong bản tường trình của anh chàng McCarthy làm tớ chú ý; tớ cho là điểm đó có lợi cho anh ta, còn cậu thì cho là có hại. Thứ nhất là: Người cha đã kêu “Cooee” trước khi nhìn thấy con trai củamình; thứ hai là : cha anh ta nói tới con chuột trong cơn hấp hối. Cậu nên hiểu, người cha nói lắp bắp vài từ, nhưng người con chỉ nghe được có một. Công cuộc khám phá của chúng ta xuất phát từ hai điểm này. Tớ nghĩ những điều chàng thanh niên khaitrên đều đúng với sự thật một trăm phần trăm.
- Tiếng gọi “Cooee” là gì?
- Rõ ràng ông ta không gọi con trai. Vì ông nghĩ con ông vẫn ở Bristol. Người con nghe thấy tiếng gọi rất tình cờ. Tiếng “Cooee” để gọi người đã hẹn gặp ông ta. Từ “Cooee” là từ của người Áo, nó chỉ dùng giữa những người Áo với nhau mà thôi. Đó là điều chứng minh xác đáng cho giả thiết rằng, người mà McCarthy hẹn gặp ở hồ Boscombe phải là một người Áo.
- Nhưng còn chuyện con chuột cống?
Sherlock Holmes lôi trong túi ra tờ giấy gấp làm tư rồi cẩn thận trải nó ra bàn
- Đây là tấm bản đồ bang Victoria. - Anh nói.
- Tối hôm qua tôi đã đánh điện đến Bristol và nhờ họ gửi cho tấm bản đồ này. - Anh lấy tay che một phần tấm bán đồ. - Cậu đọc đi - Anh ta đề nghị.
- ARAT
ARAT - Tiếng Anh nghĩa là con chuột cống.
- Còn bây giờ? - Anh nhấc tay lên.
- BALLARAT
- Hoàn toàn đúng. Đây chính là từ mà người hấp hối thốt ra, nhưng anh con trai chỉ kịp nghe có hai âm tiết cuối cùng.
Nạn nhân cố gượng nói tên kẻ giết người và tên đó là Ballarat.
- Thật tuyệt diệu! - Tôi thốt lên.
- Không nghi ngờ gì nữa, vòng vây đã khép kín. Chiếc áo choàng màu xám của tên tội phạm là bằng chứng thứ ba. Nhưng điều chưa biết này đã biến mất, và xuất hiện một người áo mặc bành tô màu xám nào đấy từ Ballaret tới.
- Sự thể sẽ ra sao?
- Chắc chắn, hắn là người địa phương ở đây; vì bên cạnh hồ ngoài trang ấp ấy ra, không còn gì nữa. Người lạ không đi đến đấy làm gì.
- Tất nhiên.
- Sau đó là cuộc khám nghiệm hiện trường của chúng ta. Trong khi xem xét nền đất, tớ đã phát hiện thêm một số chứng cớ mà tớ đã nói cho lão Lestrade nghe tuy không quan trọng lắm. Những chứng cớ này chỉ có liên quan tới việc mô tả hình dáng kẻ phạm tội mà thôi.
- Nhưng bằng cách nào mà cậu phát hiện được?
- Cậu quá quen phương pháp của tớ rồi! Nó dựa trên sự so sánh tất cả dữ kiện không đáng kể.
- Về tầm vóc của tên sát nhân cậu phán đoán gần đúngdựa nào bước chân, hoặc đôi giày, nhưng cũng có thể dựa trên những dấu vết để lại; phải không?
- Đúng, một loại giày không bình thường.
- Sao cậu biết hắn bị thọt?
- Dấu chân phải không được rõ nhừ dấu chân trái. Bàn chân phải dẫm nhẹ hơn. Tại sao? Chỉ vì hắn bị thọt.
- Còn chuyện hắn thuận tay trái?
- Chính cậu đã kinh ngạc với đặc điểm vết thương mà người phẫu thuật mô tả. Nạn nhân bị một cú giáng bất ngờ từ phía sau lưng; nhưng ở bên trái. Ai có thể làm được? Nếu như không thuận tay trái?! Trong lúc hai cha con đang nói chuyện với nhau, thì thủ phạm núp sau thân cây. Thậm chí hắn còn hút thuốc. Tớ đã tìm thấy tàn thuốc lá, và nhờ khiếu phân biệt cácloại thuốc của mình tớ đã xác định được hắn đã hút loại thuốc của Ấn Độ. Cậu biết đấy, tớ đã nghiên cứu về thuốc lá và có viết một bài báo nói về tro của 140 loại thuốc lá khác nhau, kể cả thuốc điếu cũng như thuốc tẩu. Sau khi phát hiện ra tàn thuốc lá, tớ quan sát xung quanh, và tìm thấy mẩu thuốc còn lại mà hắn đã vứt. Đó là loại thuốc của Ấn Độ, sản xuất tại Rotterdam.
- Còn cái tẩu?
- Tớ nhận thấy mẩu thuốc không bị ngậm, suy ra hắn đã dùng tẩu. Phần cuối của điếu thuốc bị cắt, nhưng nhát cắt không sắc gọn, mà nham nhở, vì thế tớ quả quyết dao của hắn bị cùn.
- Holmes, - Tôi nói - Cậu đã giăng xung quanh tên tội phạm một tấm lưới, hắn không thể chui ra được và cậu sẽ cứu thoát chàng thanh niên vô tội kia. Cậu sẽ tháo chiếc nút thòng lọng khỏi cổ anh ta. Tớ đã hình dung được tất cả những dẫn chứng của cậu đã tụ điểm vào ai rồi. Tên của kẻ giết người là...
- Ngài John Turner đến. - Người hầu phòng báo, sau khi mở cửa phòng chúng tôi và dẫn người khách vào.
Thân hình của kẻ vừa vào thật khác thường, dáng đi chậm chậm, khập khiễng; đôi vai buông xuống làm cho ông trông khắc khổ già nua; còn bộ mặt trông gớm ghiếc và thô tục; tấm thân đồ sộ thì toát lên một sức mạnh khôn lường của con người kỳ dị ấy. Bộ râu để dài xồm xoàm, mái tóc bạc trắng phủ kín gáy lởm chởm, cặp lông mày rậm đã làm cho ông ta có vẻ kiêu kỳ và mãn nguyện. Mặt ông xám xịt, còn môi và hai cánh mũi thì nhợt nhạt xanh tái. Thoạt nhìn tôi biết ngay ông đã mắc một thứ bệnh kinh niên khó chữa khỏi.
- Mời ngài ngồi. - Holmes đề nghị nhẹ nhàng, - Chắc ngài đã nhận được bức thư của tôi?
- Vâng, người gác rừng đã mang đến. Ngài muốn gặp tôi ở đây để tránh bớt sự lôi thôi.
- Tôi nghĩ rằng, sẽ có chuyển biến nếu tôi phát biểu tại phiên tòa.
- Ngài cần tôi ư?
Turner nhìn chằm chằm vào anh bạn của tôi. Trong đôi mắt mệt mỏi của ông chứa đựng nỗi tuyệt vọng, dường như ông đã đoán được câu trả lời cho câu hỏi của mình.
- Vâng, - Holmes nói nhỏ nhẹ, cái nhìn của anh đã thay cho câu trả lời. - Vấn đề là như thế. Tôi đã biết hết câu chuyện về ngài McCarthy rồi.
Lão già dang hai tay ôm lấy mặt.
- Các ngài hãy làm ơn giúp tôi? - Ông ta kêu lên tuyệt vọng. - Tôi sẽ không thể để cho chàng trai kia chết đâu? Tôi sẽ nói hết sự thật trong phiên tòa trung thẩm.
- Rất hân hạnh được nghe. - Holmes nói lạnh lùng.
- Từ lâu tôi muốn phơi bày tất cả, nhưng còn đứa con gái thân yêu của tôi. Chuyện này sẽ làm trái tim nó tan nát mất, nó sẽ đau khổ và sẽ không sống nói khi tôi bị bắt.
- Có thể không xảy ra chuyện đó đâu, - Holmes an ủi.
- Có thể như vậy sao?
- Tôi không phải là kẻ thừa hành chính thức. Cô con gái của ngài cần sự có mặt của tôi, cho nên tôi phải làm mọi việc vì lợi ích của cô ta. Ngài hiểu cho: chàng McCarthy kia cần được tự do ngay bây giờ.
- Tôi ở gần cửa địa ngục lắm rồi, - Ông Turner nói - Tôi bị bệnh đái đường đã lâu. Bác sĩ nói không biết tôi có sống được một tháng nữa hay không. Dẫu sao tôi cũng muốn được chết dưới mái nhà của mình, hơn là phải chết trong tù.
Holmes đứng dậy, đi đến bàn viết cầm cây bút và tờ giấy :
- Ngài hãy kể tất cả những gì đã xảy ra. - Anh đề nghị. - Còn tôi viết lại vắn tắt, ngài sẽ ký vào đó và Watson là người làm chứng. Tôi chỉ công bố lời tứ thú của ngài trong trường hợp cần thiết nhất thôi, để cứu tính mạng chàng trai McCarthy.
Ngược lại tôi hứa với ngài sẽ không dùng biện pháp ấy.
- Được, - Lão già trả lời - có lẽ tôi không còn sống đến phiên tòa phúc thẩm đâu. Cho nên điều kiện của ngài không làm cho tôi lo lắng. Tôi chỉ muốn đỡ cho Alice khỏi đòn khủng khiếp. Tôi sẽ kể cho ngài nghe tất cả... việc kéo dài thì lâu nhưng tôi sẽ kể vắn tắt:.. Ngài chưa được biết tay Carthy đã khuất đâu. Đó là mộtcon quỷ hiện hình, tôi thề với ngài hắn đúng như thế. Cầu chúa hãy cứu thoát ngài khỏi bàn tay thép dơ bẩn của hắn! - Hai chục năm cuối cùng của đời tôi, tôi bị hắn kìm kẹp và chi phối. Hắn đã đầu độc toàn bộ cuộc đời của tôi. Trước hết tôi sẽ kể vì sao tôilại rơi vào nanh vuốt kìm kẹp của hắn. Câu chuyện này xảy ra vào đầu những năm sáu mươi (1860) của thế kỷ XIX trong đoàntìm kiếm vàng. Thời đó tôi còn là một cậu bé thiếu suy nghĩ, nóng nảy sẵn sàng lao vào bất cứ việc gì. Tôi lọt vào băng của những người xấu và bắt đầu cuộc đời rượu chè be bét. Tôi sống một cuộc sống lang thang nay đây mai đó như một hiệp khách giang hồ. Bọn tôi có sáu người, chúng tôi đã trải qua cuộc đờihoang dã, phóng đãng, ngày này qua tháng khác chúng tôi đột nhập vào các bến xe, nhà ga, chặn đứng từng đoàn xe ở dọcđường để cướp bóc. Lúc ấy người ta gọi tôi là Jack ở Ballaret.
Bạn bè ngày ấy của tôi cho đến bây giờ vẫn nhớ tôi với cái tên Ballaret.
Hôm đó có một đoàn hộ tống áp tải vàng từ Ballaret đến Melbur. Chúng tôi đã tổ chức cuộc tấn công, có sáu người áp tải canh giữ xe vàng. Chúng tôi cũng có sáu người. Thế là xảy ra một trận cướp bóc, giết người thật tàn ác và quá khủng khiếp.
Loạt súng đầu tiên chúng tôi hạ thủ. Nhưng khi thu chiến lợi phẩm thì chúng tôi còn có ba người. Tôi chĩa súng vào thái dương tên xà ích - Người ấy là McCarthy. Lúc ấy tôi giết hắn luôn thì hay quá! Nhưng tôi đã thương hại, mặc dù tôi nhận thấy hắn nhìn tôi bằng cặp mắt ti hí gian ác, dường như muốn ghi nhớ bộ mặt của tôi. Chúng tôi đã cướp được một số vàng đáng kể, trở thành những người giầu có và hồi hương về Anh quốc, không bị một ai nghi ngờ. Ở đây tôi đã vĩnh viễn từ bỏ những người bạn xưa của mình để bắt đầu cuộc đời no đủ và yên ấm.
Tôi mua cơ ngơi này và cố gắng bằng những đồng tiền của mình làm những công việc từ thiện nhỏ để chuộc lại quá khứ đen tối của mình. Trong thời gian đó tôi lấy vợ, cô ta chết trong lúc còn quá trẻ và đã để lại cho tôi con bé Alice dịu dàng nết na. Thậm chí khi Alice còn bé bỏng, bàn tay múp míp nhỏ xíu của nó đã giữ chân tôi trên con đường làm ăn lương thiện hơn bất cứ cái gì trên thế giới này. Tôi đã vĩnh viễn chôn vùi quá khứ của mình. Mọi việc đều trôi chảy, tốt đẹp khi tôi chưa bị rơi vào tay của McCarthy.
Một lần tôi ra thành phố để giải quyết công chuyện tiền nong và bất ngờ tôi gặp McCarthy ở góc phố Regent. Trên người hắn không có cả áo bành tô, không giày dép gì hết.
Thế là chúng ta lại gặp nhau, Jack - Hắn nói và chìa tay nắm lấy tay tôi. - Từ nay chúng ta sẽ không phải xa nhau nữa.
Tớ đi không phải một mình mà mang theo cả thằng con, cậu cần phải quan tâm giúp đỡ tớ. Ngược lại cậu biết đấy: “Nước Anh là một nước tuyệt vời, ở đấy luật pháp mạnh lắm. Ngoài ra khắp nơi còn có đội tuần tra cảnh sát”.
Thế là hắn cùng với thằng con trai đi đến miền Tây sinh sống, và tôi không thể nào thoát khỏi con người đáng sợ ấy được. Bọn họ sống trên mảnh đất của tôi không phải mất tiền.
Tôi không có phút giây nào thanh thản, không được nghỉ ngơivà luôn luôn nơm nớp lo sợ cái quá khứ của mình bị vạch ra.
Nơi nào tôi đến tôi cũng gặp bộ mặt đắc chí và ranh ma của hắn. Khi đứa con gái của tôi trưởng thành thì nỗi lo sợ của tôi tăng thêm, bởi vì hắn biết rằng: Đối với tôi điều đáng sợ nhất, còn sợ hơn cảnh sát là con gái tôi biết quá khứ của tôi. Không có cái gì mà hắn không muốn, không đòi hỏi, hắn bắt tôi cấp đất,cấp nhà, cấp tiền, đó mới là yêu cầu nhỏ nhất, trong khi chưa nói đến những đòi hỏi khác. Hắn đòi luôn cả Alice cho con trai hắn. Mọi người đều biết con bệnh hiểm nghèo của tôi, hắn dự tính khả năng tuyệt diệu là thằng con của hắn sẽ chiếm toàn bộ gia sản của tôi. Nhưng lần này tôi cương quyết, tôi không thể cho phép cái giống đáng nguyền rủa ấy kết hôn với con gái tôi cho dù ở trong ý nghĩ.
Tôi và hắn hẹn gặp nhau ở khoảng giữa hai nhà sát bờ hồ để trao đổi mọi chuyện. Nhưng khi tới chỗ hẹn tôi nhìn thấy hắn đang nói chuyện với con trai. Tôi đứng đợi sau gốc cây và lấy thuốc ra hút, chờ hắn. Trong khi nghe những lời hắn nói với con trai, trong tôi trào lên sự tức giận, máu sôi lên tôi không thể chịu đựng được nữa. Hắn ép buộc thằng con phải cưới con gái tôi làm vợ, tuyệt nhiên không hề đếm xỉa đến con gái tôi có chấp thuận hay không, cứ như con gái tôi là đứa con gái làm tiền.
Tôi phát điên lên khi nghĩ là tất cả những gì tôi yêu quý sẽ phải lọt vào tay con người ấy. Tôi không thể chặt đứt gông cùm trói buộc hay sao? Tôi sắp chết vì tuyệt vọng, mặc dù lý trí tôi vẫn rất minh mẫn và tay chân còn khỏe mạnh, tôi hiểu rằng, cuộc đời tôi như thêm là hết. Nhưng còn tên tuổi tôi, còn đứa con gái cưng của tôi? Tôi sẽ cứu vớt được cả hai, nếu như tôi buộc lão McCarthy giữ mồm giữ miệng... Tôi đã giết nó, ngài Holmes ạ... Tôi giết nó, lần này thì tôi không tha. Tôi là kẻ trọng tội nhưng chẳng lẽ cuộc đời đầy rẫy bất công, đau thương này không thể chuộc được lỗi lầm hay sao? Tôi đã phạm tội nhưng cứ nghĩ con gái tôi bị rơi vào cạm bẫy là tôi không thể chịu được. Tôi giết hắn, lương tâm không hề cắn rứt tôi đã vứt bỏ một tên độc địa kinh tởm nhất. Thằng con trai chạy lại, tôi kịp trốn vào rừng, nhưng buộc phải quay lại để nhặt chiếc áo bành tô đánh rơi... Đó là sự thật hoàn toàn, thưa các ngài, tất cả những gì đã xảy ra chỉ có thế.
- Tôi không kết tội ngài. - Holmes thủ thỉ, trong khi lão già ký vào tờ khai. - Tôi thiết nghĩ chúng tôi không phải đưa chuyện này ra tòa.
- Tôi cầu mong như thế. Thưa ngài! Ngài sẽ giải quyết như thế nào?
- Tình trạng sức khỏe của ngài không quan trọng. Ngài biết đấy, sắp tới ngày phải có mặt tại phiên tòa. Tôi sẽ giữ kín lời thú nhận của ngài. Chỉ trong trường hợp McCarthy bị kết tội tôi mới buộc lòng phải sử dụng. Nếu anh ta trắng án, dù ngài còn sống hay đã chết thì sẽ không một ai biết điều bí mật của ngài. Nó chỉ ở trong chúng tôi và ngài.
- Xin tạm biệt! - Ông già trịnh trọng nói. - Khi nào đến lúclâm chung, tôi sẽ nhẹ nhõm với ý nghĩ là ngài đã xoa dịu tâm hồn tôi.
Lảo đảo đứng lên, tấm thân đồ sộ rung rung, ông già chậm chạp nặng nề bước ra khỏi phòng, chân đi cà nhắc.
- Chúng ta thật bất hạnh - Holmes thốt lên sau một hồi im lặng khá lâu. - Vì sao số phận cứ đùa giỡn với tạo hóa lại không giúp đỡ những con người khốn khổ này?
Phiên tòa trung thể đã xử trắng án cậu thanh niên James McCarthy nhờ những dẫn cứ, biện luận hùng hồn của Holmes. Ngài Turner già yếu sống thêm được bảy tháng nữa kể từ khi đến gặp chúng tôi. Hiện nay ông ta đã khuất. Chàng và Alice có thể sống yên vui hạnh phúc mà không hề biết gì về những đám mây ảm đạm của bầu trời dĩ vãng xa xôi.

HẾT
Read more…